Header image
 
 

Hành trình ra ngoài thiên hà

Minh Thần dịch 2018

 
     
 
 
Mục lục
  Ch00 - Trang 1
              Trang 2: địa dư
              Trang 3: Bapak
  Ch01 - Chương 1 - Childhood Journey
  Ch02 - Chương 2
  Ch03 - Chương 3
  Ch04 - Chương 4
  Ch05 - Chương 5
  Ch06 - Chương 6
  Ch07 - Chương 7
  Ch08 - Chương 8
  Ch09 - Chương 9 - Journey of A Young Man
  Ch10 - Chương 10
  Ch11 - Chương 11
  Ch12 - Chương 12
  Ch13 - Chương 13
  Ch14 - Chương 14
  Ch15 - Chương 15
  Ch16 - Chương 16
  Ch17 - Chương 17 - Journey Beyond The Stars
  Ch18 - Chương 18
  Ch19 - Chương 19
  Ch20 - Chương 20
  Ch21 - Chương 21
  Ch22 - Chương 22
  Ch23 - Chương 23
  Ch24 - Chương 24
  Ch25 - Chương 25
  Ch26 - Chương 26 - Across Java
  Ch27 - Chương 27
  Ch28 - Chương 28
  Ch29 - Chương cuối: Lời bạt
  Ch30 - Thuật ngữ
 

 

 

CHƯƠNG 28

Nước cao tới đầu gối, Warnati và Haryono lội qua con sông đang chảy xiết. Nước sông màu trắng đập vào những tảng đá mòn và khối đá nhồi lên mặt đất. Ngón chân họ đã nhiều lần bị đụng vấp tới nỗi không có nhớ được là bao nhiêu lần nữa.

''Con đường này tốt hơn,'' Haryono chỉ về phía những tảng đá bằng phẳng nhô lên từ vách hẻm núi.

''Ibu sẽ không thể đi qua được,'' tiếng la hét của Warnati lấn át cả âm thanh dòng sông. ''Tốt hơn là đi trên bờ sông đối diện.'' Cô chỉ về phía dải đất gồm bùn và cát của bờ sông.

''Nhưng đó là một nơi rất dễ bị phát hiện,'' Haryono phản đối.

''Nếu có một đội tuần cảnh đi ngang qua mà nhìn qua nơi đây, bố mẹ sẽ bị coi là những kẻ đi chạy loạn. Trông bố mẹ không như dân địa phương.''

Haryono và Warnati là những kẻ tình nguyện đi dò thám cho cuộc chạy loạn đầy nguy hiểm từ Semarang tới Wolodono.

Mỗi sáng họ thức dậy thật sớm để đi dò đường và giúp mọi người trong gia đình được tối đa an toàn và vô sự chọn đường đi trên một khu vực không quen thuộc.

Đối với họ, cũng như với Rahayu và Haryadi, đây là một cuộc mạo hiểm lớn nhất trong đời mình.

Có những nguy hiểm đích thực – thú dữ, lính tuần cảnh Nhật, kẻ cướp, kẻ có cảm tình với người Hà Lan, nghĩa quân chiến đấu trong thiếu thốn – cùng với sự thách đố của chuyến đi.

Làm cách nào để sống còn?

Sẽ lấy gì để ăn uống? Họ chỉ có những thứ mình mang theo. Có thể mất nhiều tuần – nhưng họ còn tránh tất cả những đường và lối đi thường được dùng.

Nhiều cuộc hành quân thường xảy ra trên những đường đó.

'Nếu muốn bị khó khăn, thì chỉ việc đi trên các con đường,' đó là phương châm của những ai chạy loạn. Haryono và Warnati thường nghe nói tới nó.

Hàng ngàn người đã lên đường đánh đổi cuộc sống mình với những nguy cơ của chuyến đi, thay vì để cho bị cưỡng bách tòng quân bởi những phe phái đang đánh nhau để làm chủ của Java. Các trẻ em đều hay biết tất cả về chuyện đó - nhưng như những trẻ em tại bất cứ đâu, chúng không ý thức được là mình có thể bị chết.

Không ai có thể kiềm chế chúng.

Chúng chạy trở lại chỗ rẽ của con sông, nơi gia đình ở tạm để ngủ đêm.

''Bapak và Ibu đang nấu ăn!'' Haryono vui mừng la hét. Những lúc ăn uống, nếu có, là thành phần cuộc phiêu lưu.

''Hôm qua Ibu đã bán được một chiếc batik khác?'' Warnati thắc mắc hỏi khi chúng leo trèo qua những tảng đá để tới nơi ẩn náu gồm những cây cối to tướng với những lá cây lớn như những chiếc dù.

''Nếu không bán được thì chẳng có gì nhiều cho bữa ăn sáng,'' Haryono cười.

Ibu Sumari và Rahayu mang theo những batik cũ xưa – bằng vải – mà họ dùng để trao đổi cho thức ăn và việc được tạm trú.

Muhammed Subuh ngồi trên một thân cây bị chặt đốn cầm một tách cà phê bằng thiếc. Haryadi đang ngáp và vươn vai. Rahayu thì đang quấy một chảo bằng thiếc trong đó là cháo. Đó là thứ cháo lỏng cho người ốm ăn, và trong những lúc khá hơn thì có thể là cháo đặc.

Ibu Sumari sửa soạn lại đầu tóc mình. Tóc bà trải xuống như một khăn choàng màu đen phía sau lưng tới eo.

Warnati lấy làm lạ không biết như thế nào mẹ mình có thể ăn mặc chải chuốt,  ngay cả trong lúc đi trong rừng và trên bờ sông.

''Chỗ ngã ba kế tiếp của con sông chúng ta sẽ từ đó đi tới Kedu,'' Haryono báo cáo điều mình tìm thấy cho Subuh: hồi đó chưa có một tấm bản đồ đầy đủ chi tiết nào về vùng đó. Phần đông những phụ lưu của con sông chưa từng được ghi vào bản đồ.

Những người chạy loạn khỏi quê quán mình đi đưọc không đầy 5 km là phải bỏ mất những đồ đạc của mình, khi họ không đi trên những con đường.

Vài trăm mét ngoài phạm vị thôn xã và đồng ruộng mình, những người dân quê hầu như không biết chút gì về địa hình và chiều hướng của những dòng nước.

Subuh giữ cho gia đình mình không đi xa khỏi những ngọn núi. Tuy có những nơi ẩn náu tại chân đồi, nhưng bọn cướp thường đến những vùng đất thấp là nơi dễ cướp bóc hơn, và do đó cũng thường không có mặt tại những nơi ấn náu.

Nếu chỉ có một mình thì Muhammed Subuh đã có thể mỗi ngày đi được 30 km - ngay cả khi dùng những lối đi lên xuống vòng quanh, không là những lối đi thường dùng.

Nhưng mấy đứa con ông đã mệt mỏi vì chơi đùa, còn chân cẳng của Siti Sumari thì không đủ sức mạnh.

Họ đôi khi dừng chân lại để chuyện trò với những người cùng chạy loạn khác, những kẻ cũng như họ muốn đến những thôn xã xa xôi tìm nơi trú ẩn tại đồng quê miền Trung Java.

Đến được đích vẫn còn xa.

Mọi người trong gia đình đi dọc theo một ngọn suối nông cạn bên ngoài nơi gần cận của Kedu. Họ đã đi được một tuần. Wolodono – cộng đồng nhỏ bé gần Temanggung là quê quán của Siti Sumari – chỉ cách 2 hay 3 ngày đường. Subuh và Siti Sumari đi đằng sau và thường không bắt kịp các con cái. Rahayu thường trông chừng Haryadi, còn Haryono và Warnati thì dẫn đầu.

Bapak đi chung với Siti Sumari để cho có bầu có bạn; khi đi ông kể cho bà nghe nhiều chuyện. Những chuyện tự phát được kể cho tới lúc cuối. Một chuyện có thể kéo dài nửa tiếng đồng hồ hay mất nửa ngày trời. Đôi khi Warnati và Rahayu thường đi theo phía sau để nghe kể những chuyện như 'Căn Nhà bằng Cẩm Thạch' hay 'Người Đàn Ông với Ống Điếu' hay 'Anwar và Anwas,' câu truyện về hai người con trai của Adam.

Hôm nay, Siti Sumari cảm thấy lo lắng. Khu rừng thật thâm sâu và u tối. Họ chưa gặp một mạng người nào kể từ lúc giữa sáng.

''Mas, tôi cảm thấy sợ; tôi không hiểu tại sao, nhưng cảm thấy sợ. Ông có nghĩ là người Nhật sẽ có thể tìm thấy chúng ta – hay ngay cả bị quân phiến loạn tìm thấy – bọn này thì còn tệ hơn nữa...Mas, điều gì sẽ xảy ra với chúng ta? Chúng ta sẽ phải chết?''

''Để tôi kể cho bà nghe chuyện này,'' Subuh nói.

''Cách đây không lâu có một người rất tốt bụng, một người ân cần và lương thiện. Ông là một nhà tu hành, một tu sĩ Thiên Chúa giáo – một Belanda, một người Hà Lan da trắng.

''Ông hết mình tận tâm phục vụ các con chiên mình tại một thôn xã nhỏ bé ở Sulawesi; ông sát cánh với họ ngay cả sau khi nước ta bị người Nhật xâm chiếm. Ông tiếp tục sát cánh cùng họ khi người Nhật bao vây thôn xã và tất cả những cuộc chống đối bị tiêu diệt.

''Ông ở lại nhà mình để an ủi cộng đoàn. Một đêm nọ có một giáo đồ đến gõ cửa vội vã nói: 'Cha, cha phải đi ngay lập tức. Nếu không cha sẽ bị xử tử!

''Nhưng vị tu sĩ đó nói: 'Chuyện sống hay chết không tuỳ thuộc một người lính Nhật, mà tuỳ thuộc Thiên Chúa. Tôi tin cậy Thiên Chúa. Tôi sẽ không đi đâu hết.

'' Người giáo đồ đó bỏ đi, chán nản. Ban đêm, vị tu sĩ đó cầu nguyện phó mặc mạng sống mình cho sự Cao Cả của Thiên Chúa.

''Lúc quá nửa đêm, có một tiếng gõ cửa. Ông ra mở cửa.

''Một sĩ quan Nhật đứng đó với biểu chương và y phục bóng loáng. Hắn bước vào phòng; vị tu sĩ đó không nhúc nhích, vẫn điềm tĩnh quy thuận Thiên Chúa.

''Ông thầy tu này, lúc bình minh ông sẽ chết,'' viên sĩ quan Nhật nói.

''Có thể là vậy và cũng không thể là vậy,'' vị tu sĩ đó đáp. ''Dù gì đi nữa, chuyện sống hay chết không tuỳ thuộc bất cứ ai ngoài Thiên Chúa.

''Vị tu sĩ đó đợi chờ sự định đoạt của Thượng Đế.

''Đột nhiên, ông nghe thấy viên sĩ quan Nhật nói:

''Hôm nay, ngay lúc trước bình minh, đúng lúc 4 giờ 30 sáng, ông sẽ phải ra khỏi căn nhà này, rồi đi qua bên phải trên con đường làng, đi độ 400 bước thì sẽ tới góc một trại lính của quân Nhật, và phải quỳ trên đầu gối 

''Từ nơi đó, ông sẽ đi qua bên trái và phải quỳ trên đầu gối mà bò, nhưng không được nhìn qua phải hay trái. Ông sẽ bò dọc theo một hàng rào. Dù có gì xảy ra đi nữa, ông phải tiếp tục bò. Tiếp tục bò mà không được nhìn qua trái hay phải.

''Ông sẽ tới góc một hàng rào. Từ đó, ông phải quẹo qua bên phải, nhưng phải tiếp tục bò, cứ tiếp tục bò thẳng tới phía trước.

''Ngay sau đó, ông sẽ thấy trước mặt mình, trên một cái bệ, một thanh kiếm Nhật Bản. Ông phải tiến tới phía thanh kiếm đó trên đầu gối mình, mà không được nhìn qua trái hay phải. Hãy hôn lên thanh kiếm đó.

''Kế đến, ông sẽ đi về một cách y hệt như những gì đã diễn tả, nhưng đi ngược lại. Ông không được đứng cho tới khi đến con đường làng. Sau đó, ông sẽ đứng lên rồi chạy về nhà mà chờ đợi. Như thế có lẽ ông sẽ không chết.

''Hết sức ngạc nhiên về những lời khuyên đó, vị tu sĩ đó ngẩng đầu lên nhìn.

''Viên sĩ quan Nhật đã đi mất. Nhưng cửa nhà đã đóng. Vị tu sĩ đó đã không nghe thấy cửa đã từng được mở hay đóng.

''Ngay lúc đó, ông nhận thấy trong một nỗi lo sợ khiến ông tự hỏi không biết Thiên Chúa và các thiên thần sẽ làm ra sao.

''Ông thức cho tới 4 giờ 30 sáng, và đi làm đúng những gì mà viên sĩ quan bảo mình làm. Ông đi trên con đường làng, đi qua bên trái rồi bò trên đầu gối mà không nhìn qua phải hay trái.

''Khi tới hàng rào, ông chợt nghe thấy những tiếng la hét ồn ào, khàn khàn. Ông tự ép mình không cho phép mình theo hướng những tiếng đó, mà chỉ việc tiếp tục bò, mắt nhìn thẳng.

''Ban đầu những tiếng la hét đó xuất phát từ hai bên, kế đến là tiếng thịch thịch của giầy ống, tiếng lách cách của lưỡi lê và âm thanh của tiếng súng.

''Ông vẫn tiếp tục bò, không nhìn qua trái hay phải. Tại hàng rào ông quẹo qua phải. Sự náo động ầm ĩ đi theo ông từ hai bên, khi ông bò tới phía thanh kiếm đặt trên bệ.

''Tiếng ầm ĩ hỗn loạn trở nên mãnh liệt hơn, khi ông đến gần thanh kiếm. Nhưng khi ông hôn lên nó, những tiếng ồn ào kinh khiếp đó biến thành những tiếng tiếng cười phá lên.


''Tiếng cười và tiếng chế nhạo đi theo ông, khi ông trên đường đi về. Rút cục thì ông đã hoàn thành những gì người ta bảo mình làm: ông đến con đường làng, đứng lên và chạy về nhà để đợi chờ.

''Lúc đó là bình minh.

''Khoảng 8 giờ sáng có một tiếng gõ cửa. Năm người lính Nhật bước vào, trói tay ông lại, rồi lôi dẫn ông đi.

''Không bao lâu, chúng lôi dẫn ông tới một nơi gần thanh kiếm trên bệ. Dưới ánh sáng đầy đủ của ban ngày, vị tu sĩ đó trông thấy đó là thanh kiếm dùng để xử tử chặt đầu mình.

''Bọn lính đánh đập cho ông quỳ xuống bên chân một viên đại tá Nhật, râu đen, thân hình mập lùn với giầy ống lớn màu đen. Viên đại tá đó đang rửa tay. Có một kẻ trước đó đã bị xử tử.

''Hắn quay người lại nhìn từ nơi đặt chậu nước; khuôn mặt hắn trở nên đỏ bừng; hắn chợt bật cười.

''Hắn cười đi cười lại, ngón tay chỉ vào vị tu sĩ. Cuối cùng hắn ngưng cười và nói bằng một thứ tiếng Anh ngập ngừng.

'' Đây rồi! Đây rồi chính ông hôm nay là kẻ hôn lên thanh kiếm lúc bình minh!'
'' 'Điều gì khiến ông làm vậy! Ai đã bảo ông phải hôn thanh kiếm?'

''Vị tu sĩ đó cúi mặt xuống.

''Khuôn mặt viên đại tá trở nên dữ tợn. 'Sự hôn lên thanh kiếm có kết quả là định mệnh ông đã được an bài,' hắn nói.

''Vị tu sĩ đó đặt định mệnh mình cho sự định đoạt của Thượng Đế, ngay cả khi viên đại tá nói điều đó.

'' 'Định mệnh ông đã được định đoạt,' viên đại tá nói.  'Ông sẽ sống.' ''

Ibu câm lặng trong một lúc. Ánh sáng khu rừng bắt đầu trở nên mờ nhạt.

''Như vậy thì viên sĩ quan Nhật đến gặp vị tu sĩ đó,'' bà mạnh dạn hỏi, ''người đó là một thiên thần?''

Subuh gật đầu tỏ sự đồng ý. ''Bà nên biết là đi theo con đường của latihan thậm chí còn khó hơn theo con đường của vị tu sĩ đó.''

Chợt nhiên, Subuh thay đổi hướng đi qua bên phải, và bắt đầu đi vào khu rừng, thay vì đi dọc theo ngọn suối.

''Mas, ông đi đâu vậy?'' Siti Sumari kêu la. ''Con cái chúng ta đều đi theo bên trái ngọn suối!''

Subuh tiếp tục đi, và nói với bà trong lúc đang đi: ''Ibu, bà cứ việc đi theo tôi.''

''Chân tôi không đủ sức,'' bà phản đối. ''Trời đã tối rồi. Tôi không thấy được gì. Điều gì sẽ xảy ra cho mấy đứa con?''

''Bà cứ theo tôi,'' Ibu nghe thấy ông nói. ''Bà hãy can đảm mà theo tôi.''

Warnati là kẻ đầu tiên nhìn thấy căn nhà gần như bị khu rừng che kín.

''Adik Haryadi, coi kìa,'' cô thì thầm nói với em trai mình. ''Em có trông thấy ngôi nhà kỳ ngộ kia không?'' Haryadi cuối cùng cũng nhận ra nó. ''Trông muốn rụng tóc gáy...'' Khi nói điều đó, cậu cảm thấy có một bàn tay mạnh mẽ đặt lên vai mình.

''Muốn rụng tóc gáy, thực vậy sao? Nói như vậy thì không tốt chút nào cho căn nhà mà tao đã sửa lại.''

Warnati và Haryono quay đầu lại nhìn thì trông thấy khuôn mặt rám ánh nắng của một người đàn ông thấp và lùn. Kẻ đó đang nhăn mặt, và sự nhăn mặt đó khiến cho nét mặt của hắn trở nên hung tợn và khó coi.  Warnati và Haryono cảm thấy khiếp sợ.

''Sợ hả?'' hắn hỏi rồi cười hố hố. ''Vào đây, chúng ta đi gặp ông già  tụi bây.''

Điều hết sức ngạc nhiên là Pak Subuh và Siti Sumari đang ngồi trong nhà.

''Bapak và Ibu đã dùng một con đường tắt,'' Subuh nói với mấy đứa con.

''Điều khiến tao ngạc nhiên,'' người đàn ông da ngăm đen nói, ''là ông già tụi bây đến bên cửa nhà tao nói: 'Tôi và gia đình đã đi từ Semarang tới đây. Chúng tôi mệt mỏi vì đã phải ngủ ngoài trời  - điều đó chúng tôi không quen. Ông có thể cho phép chúng tôi ngủ đêm nơi đây?' ''

Hắn đập tay lên đùi nói: 'Trên đời có ai mà can đảm được như vậy?' Hắn làm một động tác vung quét với bàn tay nặng nề của mình.

Nhìn theo chỗ hắn chỉ, người ta có thể trông thấy một vài món khí giới tại một góc nhà.

''Như một ổ cướp!'' Haryadi thì thầm nói.

''Đúng đấy,'' hắn nói, ''và tao là thủ lãnh của tất cả bọn cướp nơi đây.'' Hắn nhìn Subuh. ''Nhưng ông già mày, ổng là một thủ lãnh cao siêu, còn cao siêu hơn tao nhiều!

''Tại sao lại vậy, tao không hiểu tại sao có điều đã ám ảnh mình tuần vừa rồi! Tao chỉ biết là mình phải sửa cho đẹp nơi chốn này. Tao sai một vài đứa trong nhóm mình chỉnh sửa lại tường nhà, và bắt đám ghệ của chúng làm cho tao nhiều tấm màn che. Tao còn bắt phải đem tới lên núi cho mình những chiếc giường lấy của những trại lính Nhật. Không phải ăn cắp – không. Mua bán đàng hoàng.

''Suốt ngày tao tự nói với mình: 'Bung, mày là một thằng khùng mà làm những chuyện này. Không có lí do nào bắt mày phải làm.' Nhưng tao lại đi ra ngoài để mua thêm thức ăn!

''Sau đó thì ông già tụi bây tới, trông hết sức thanh thản. Tao nhìn khuôn mặt ổng rồi tự nói với mình: 'Bung, trước đây mày chưa từng nhìn thẳng vào cặp mắt một con người lương thiện – bây giờ thì mày được dịp nhìn trước khi chết.'
''Nên tao nói: 'Bapak, xin ông cứ tự nhiên vào đây,' ổng bước vào, ngồi xuống và hình như nơi chốn này đã được chuẩn bị để đón ổng...'' Tên cướp tạm ngưng nói, khuôn mặt hắn trở nên dịu hiền và thân thiện.  '...Mà thực sự là vậy.'

''Bung, những gì ông làm đều được hướng dẫn, khiến ông trở thành một con người lương thiện, phục tòng và độ lượng – tuy tôi biết là ông không nghĩ như vậy khi ông làm những gì mình đang làm,'' Subuh nói.

''Chính linh hồn ông đã khiến ông làm một việc tốt lành. Việc làm đó có kết quả là những người lương thiện cảm thấy mến ông.''

Trên khuôn mặt tên cướp nhiều giọt nước mắt chảy xuống. Hắn không nói một lời nào mà chỉ đi chuẩn bị một bữa ăn đơn sơ nhưng làm vừa lòng mọi người. Hắn còn đi đặt những tấm nệm sạch sẽ lên giường và chúc Subuh cùng gia đình một giấc ngủ ngon.

Đám con ông đã thức dậy trước lúc bình minh, nói năng bi bo cùng với những con gà trống trong rừng.

Tên cướp khẩn cầu Subuh ở lại để giúp hắn, coi nhà hắn như nhà mình.

Nhưng Subuh nói: ''Bung, xin thứ lỗi cho, tôi không thể ở đây. Tôi phải tuân theo sự hướng dẫn mà mình tiếp nhận được. Bây giờ thì tôi phải tới quê quán bà xã mình. Từ đó còn phải đi đâu nữa thì tôi không biết. Nhưng một ngày nào đó, sau khi đất nước chúng ta được tự do, có lẽ tôi sẽ phải đi khắp thế giới.''

Bình minh đang lên khi Muhammed Subuh từ biệt để cùng Ibu và con cái tiếp tục lên đường.

 
     
 
   
  © 2018 góc nhỏ