Header image
 
 

Hành trình ra ngoài thiên hà

Minh Thần dịch 2018

 
     
 
 
Mục lục
  Ch00 - Trang 1
              Trang 2: địa dư
              Trang 3: Bapak
  Ch01 - Chương 1 - Childhood Journey
  Ch02 - Chương 2
  Ch03 - Chương 3
  Ch04 - Chương 4
  Ch05 - Chương 5
  Ch06 - Chương 6
  Ch07 - Chương 7
  Ch08 - Chương 8
  Ch09 - Chương 9 - Journey of A Young Man
  Ch10 - Chương 10
  Ch11 - Chương 11
  Ch12 - Chương 12
  Ch13 - Chương 13
  Ch14 - Chương 14
  Ch15 - Chương 15
  Ch16 - Chương 16
  Ch17 - Chương 17 - Journey Beyond The Stars
  Ch18 - Chương 18
  Ch19 - Chương 19
  Ch20 - Chương 20
  Ch21 - Chương 21
  Ch22 - Chương 22
  Ch23 - Chương 23
  Ch24 - Chương 24
  Ch25 - Chương 25
  Ch26 - Chương 26 - Across Java
  Ch27 - Chương 27
  Ch28 - Chương 28
  Ch29 - Chương cuối: Lời bạt
  Ch30 - Thuật ngữ
 

 

 

CHƯƠNG 26

 Trong cuộc hành đi ra ngoài các tinh hà và xuyên qua 7 tầng trời, Muhammed Subuh nhận được quyền khai mở cho những ai muốn giao tiếp với quyền năng của Thượng Đế trong latihan kedjiwaan.

Người bạn anh, Kadarusman, đến xin khai mở ngay sau đó.

Subuh đem Kadarusman vào phòng học; họ cùng đứng chân không trên tấm thảm và những chiếc chiếu trải trên sàn nhà.

''Mas Kadarusman,'' Subuh nói. '' Em chỉ là kẻ làm chứng cho ước muốn phụng thờ và quy thuận Thượng Đế của anh. Em không là kẻ đưa anh tới quyền năng của Thượng Đế. Chỉ Thượng Đế mới có thể.

''Vậy thì anh đừng mong đợi em làm bất cứ gì, và chính anh cũng đừng tìm cách làm bất cứ gì.

''Anh chỉ việc thư thái, và để cho bất cứ những gì xảy ra thì xảy ra.

''Anh hoàn toàn không cần phải suy nghĩ hay mong muốn bất cứ gì, mà chỉ việc để cho tâm trí mình trở nên yên lặng – như sự yên lặng của mặt nước trên hồ khi không gió.

''Nếu được khiến cho làm bất cứ gì từ trong lòng, anh chỉ việc làm theo mà không phải lo sợ. Anh chỉ việc làm theo bất cứ những gì đến với mình từ quyền năng của Thượng Đế trong latihan.''

Ngay sau đó, Subuh bắt đầu có latihan.

Anh liền nghe thấy một tiếng vang do quả đấm gây ra. Kadarusman đã lăn té xuống sàn nhà.

Subuh không thấy lo lắng cho bạn mình. Anh chỉ hoàn toàn phó thác cho sự trông nom của Thượng Đế.

Nửa tiếng đồng hồ trôi qua thì latihan của Subuh ngưng lại; anh cảm thấy mắt mình mở ra. Anh trông thấy cái cơ thể nằm bất động trước mặt mình trên sàn nhà.

Trong một vài giây, Kadarusman đứng lên. Mắt anh mở to vì kinh ngạc.

Subuh thấy khuôn khuôn mặt anh bạn thân mình trở nên sáng rực và vui sướng.

''Động tác của dhikir tiến hành trong lòng mà không do ý muốn của anh,'' Kadarusman cuối cùng nói. ''Ban đầu anh cảm thấy một sự rung động mãnh liệt, nhưng bây giờ thì hình như chỉ cảm thấy 'Allah, Allah, Allah; Thượng Đế, Thượng Đế, Thượng Đế' trong tất cả những gì mình làm.

''Bởi chính mình đã nghiệm được sự giao tiếp với quyền năng của Thượng Đế trong latihan kedjiwaan, nên anh có thể hiểu được tại sao em luôn nói rằng nó khác biệt, hoàn toàn khác biệt với những gì anh hay em đã nghiệm được hay nghe nói tới với tôn sư này tôn sư kia.

''Bây giờ thì anh biết được giáo lý của cụ Abdurachman, chẳng hạn, chỉ là tarekh: chỉ là nỗ lực của tâm trí muốn hiểu được Thượng Đế.

''Nhưng nội dung của cái latihan này là hakekat: cái thực tại, sự trực tiếp nghiệm được chân lí, điều mà chỉ Thượng Đế mới có thể ban cho.

''Vậy nên, anh có thể thấy được tất cả những gì mà anh em mình đã trải qua – với Kiyai Sunariodigdo, Kiyai Saman, Kiyai Sidik Wacono và vân vân – chỉ là những trải nghiệm thuộc phạm vi cái thế gian này, phạm vi của tâm trí. Những gì em trải qua là để cho em nhận rõ được là tất cả những cái đó không có kết quả gì, và điều duy nhất để chân thực phụng thờ Thượng Đế là phụng thờ quyền năng của Thượng Đế trong lòng mình.

''Bây giờ anh mới hiểu tại sao em đã phải đợi chờ. Em không là kẻ có thể định đoạt lúc nào. Chỉ Thượng Đế mới có thể: bởi cái latihan kedjiwaan này không chỉ cho em, hay cho anh, hay cho một vài kẻ được lựa chọn.

''Không. Đó là ân huệ của Thượng Đế cho toàn thể nhân loại, ngoài ý muốn hay ý định của mình.''

Muhammed Subuh gật gù tỏ sự đồng ý.

''Adik, em nói đúng đấy,'' Kadarusman kết luận, ''do ân huệ Thượng Đế mà em là người đầu tiên nhận được, hình như chiếc máy bay của anh đã tới. Anh cảm thấy cuối cùng thì mình đã tới được đỉnh núi.''

Muhammed Subuh nhìn Kadarusman trong một lát rồi nói:

''Mas Kadarusman, bởi chính anh đã hiểu và nhận thấy được bằng chứng trong lúc theo tập cái latihan này, nên em cũng muốn chia sẻ cùng anh kinh nghiệm của mình.''

''Thực vậy, điều này thì anh đã chứng kiến: nội dung và thực tại của latihan khác hẳn với những gì mà con người có thể đạt được qua cách dùng ý chí và trí tuệ, dù là theo một tôn sư, hay theo những ý nghĩ của chính mình.

''Tuy con người có thể đạt được những thành quả bằng cách cố gắng đeo đuổi những đường lối tu thân này nọ, nhưng những thành quả đó không là lí tưởng.

''Đó là bởi vì chính những dụng cụ mà thiên hạ dùng để đạt được những điều đó, là những gì bị sự chi phối của những sức mạnh thuộc tâm trí, những gì chỉ giới hạn cho cái thế gian này, nên những điều đó chỉ giới hạn cho cái thế gian này, và như vậy thì sẽ không bao giờ có thể đem ta tới cái quê hương và của con người sau khi chết.

''Xưa kia, thiên hạ có khả năng khá hơn phân biệt được giữa sự sống xuất phát từ những sức mạnh của cái thế gian này với chính quyền năng của Thượng Đế.

''Theo những trải nghiệm của em, em được chỉ cho thấy cái thế giới này và toàn thể nhân loại đã bước vào một thời đại mới. Trong thời đại này, trí óc con người càng lúc càng trở nên khôn khéo trong việc chế tạo những thứ này nọ – trong quá trình đó tư tưởng của người ta càng lúc càng bị những thứ vật chất chi phối.

''Dần dần thiên hạ khắp nơi không còn tiếp xúc được với cái bản ngã đích thực, với chân tính mình – họ tin rằng tư chất mình chỉ là những gì mình nghĩ.

''Hậu quả là càng lúc càng có nhiều người không muốn phụng thờ Thượng Đế nữa.

''Điều này là đương nhiên, bởi trí óc không thể chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế: trí óc đòi hỏi bằng chứng để có thể tin.

''Vậy nên, mỗi người đều đòi hỏi bằng chứng cho chính mình, để tin tưởng và phụng thờ Thượng Đế.

''Những tiếp nhận trong latihan của em cho thấy từ cuối thập niên 1950 sẽ có một sự bùng nổ của những kiến thức về vật chất chưa từng có trong lịch sử.

''Chính đây là lúc mà con người cần có một con đường phụng thờ Thượng Đế cho mình những bằng chứng xác thực.

''Bởi nếu không thì trí óc con người sẽ càng lúc càng mất đi cái khả năng được Thượng Đế dẫn dắt trong cuộc sống.

''Thiên hạ càng lúc càng bận việc và dùng tư tưởng, khiến họ càng không có nhiều thì giờ cảm nhận sư an vui trong lòng mình.

''Và đây chính là điều khiến có latihan kedjiwaan.

''Cái latihan kedjiwaan mà anh nghiệm thấy, đã được Thượng Đế ban phát đặc biệt cho thời đại này.

''Ta có thể tiếp nhận ngay trong đời sống hằng ngày mà không cần phải trốn tránh lên núi hay ra bờ biển.

''Bằng chứng ta có là qua cái dụng cụ duy nhất mà thiên hạ có thể dùng để chứng minh bất cứ gì: cơ thể, cảm xúc và giác quan của chính mình.

''Như vậy là được trực tiếp. Bất cứ ai cũng có thể trực tiếp nhận, cho chính mình,  mà không cần phải thông qua bất cứ một guru hay tăng sĩ nào.

''Bây giờ anh có thể tự mình tập latihan; anh có thể tiếp nhận và nghiệm được quyền năng của Thượng Đế tác động trong lòng mình.

''Chẳng bao lâu, anh cũng sẽ có thể là chứng nhân cho sự khai mở của những người khác. Bởi anh không là kẻ khai mở cho ai đó: chính quyền năng của Thượng Đế làm chuyện đó.

''Từ trước tới nay chưa từng có một điều gì như vậy.

''Ân huệ này của Thượng Đế thật khiến kinh ngạc: bất cứ ai cũng có thể trực tiếp và tự mình tiếp xúc với quyền năng của Thượng Đế – chỉ bằng cách quy thuận.

''Ban đầu, tất cả những gì em tiếp nhận được là một ánh sáng mãnh liệt rung động; kế đến cái đó khiến em có những động tác theo lối cầu kinh của người Hồi giáo; kế đến nữa, nó khiến em phát ra những tiếng nói của sự cầu kinh.

''Nên em nghĩ: ''Điều đó dạy cho mình, Muhammed Subuh, một người Hồi giáo, cách cầu kinh theo người Hồi giáo.

''Nhưng đột nhiên, latihan đã khiến em múa hát và làm vô số những điều khác nhau, và mỗi gì mình làm thì đều có sự rung động của Thượng Đế, như lúc mình cầu kinh.

''Thế nên, em hiểu được: cái latihan là tất cả sự sống, trong đó mọi hoạt động đều chan chứa sự phụng thờ Thượng Đế.

''Còn điều này nữa: đó là một latihan cho mọi người – không chỉ cho người Hồi giáo, không chỉ cho người Java.

''Mas Kadarusman, điều em được chỉ cho thấy sẽ xảy ra trong tương lai là điều này: latihan kedjiwaan sẽ truyền bá khắp thế giới.

''Những người thuộc những chủng tộc, quốc gia và tôn giáo khác nhau sẽ nghiệm chứng được sự đồng nhất trong latihan.

''Họ sẽ nghiệm chứng được nhân loại không gồm hàng tỷ tỷ người khác nhau, mà thực ra là một khối duy nhất.

''Những dị biệt trong ngoại giới về văn hóa và tôn giáo là từ những cội nguồn giới hạn cho cái thế giới này. Nhưng sự đồng nhất trong nội giới là từ một cội nguồn bên ngoài cái thế giới này – một cội nguồn chỉ có thể tiếp xúc được nhờ chính quyền năng của Thượng Đế.

''Thế cho nên, cái latihan này không chỉ là một phương tiện cho con người phụng thờ trong cái thế giới hiện đại luôn bận việc này; đó còn là một phương tiện cho con người nghiệm được bằng chứng về sự đồng nhất của mình với những người khác, dù màu da, quốc gia hay tôn giáo của họ là gì đi nữa.

''Từ trưóc tới này Ân Huệ của Thượng Đế chưa từng đến với nhân loại theo một cách làm cho mọi tôn giáo, chủng tộc, văn hóa và quốc gia được hòa hợp.

''Do đó mà cái latihan này chỉ thuần tuý là chứng nghiệm.

''Chứng nghiệm trước hết. Giảng giải sau đó.

''Vậy nên, như trường hợp của anh, anh trước hết nghiệm được thực tại, và bây giờ thì em giải thích dựa trên sự tiếp nhận và hành trình của chính em trong latihan.

''Đó không là giáo lý. Giáo lý là những gì chúng ta nghiệm được với các kyiai. Họ nói với chúng ta: 'Làm điều này điều nọ, đi tới chỗ này chỗ kia, tin điều này điều nọ.'

''Như vậy là không thể đúng. Bởi như anh đã nghiệm thấy, những chứng nghiệm của anh trong latihan chỉ là của anh – không là của em hay bất cứ ai khác.
''Vậy nên, em không thể nói cho anh là phải làm như thế này thế kia – bởi điều đó xuất phát từ chính trong lòng anh.

''Đã có quá nhiều những giáo lý, quá nhiều những dạy bảo và chỉ dẫn của Thượng Đế. Nhiều tới nỗi không cần phải có nữa.

''Nhưng điều hiện nay cần và cần phải có khắp nơi trên thế giới – càng lúc càng cần – là cái khả năng thực hiện những chỉ dẫn đó.

''Đó là điều latihan kedjiwaan tạo cho chúng ta.

''Đó là điều latihan kedjiwaan tạo cho thế giới hiện đại. Nhưng điều tạo nên đó cũng trở nên khó khăn, bởi chúng ta phải tuân theo những gì tiếp nhận được, dù xảy ra bất cứ gì.

''Thế cho nên, dù xảy ra bất cứ gì, em phải chuẩn bị đi khắp thế giới để truyền bá cái ân huệ này cho toàn thể nhân loại.

Muhammed Subuh bắt đầu nhận và dẫn cách tu tập cho bất cứ ai muốn theo cách phụng thờ Thượng Đế trong latihan kedjiwaan.

Có những người tiếp nhận được sự khai mở như Kadarusman. Những người khác thì tiếp nhận theo những cách khác hẳn nhau: những động tác tương tự với những gì mà Subuh đã nhìn thấy trong những tranh ảnh của cuốn sách đầu tiên.

Hiệu quả và kết quả của latihan khiến anh ngạc nhiên:

Có những kẻ mà lề lối cư xử không mấy tốt đẹp trước khi được khai mở, đã nhận thấy nó tự nhiên trở nên khá hơn khi họ theo tập latihan.

Có những kẻ trước kia bị đau ốm thấy sức khoẻ mình trở nên khá hơn trong lúc theo tập latihan.

Những kẻ mà tâm trí bị rối loạn và căng thẳng, cảm thấy nó trở nên an bình và trong sáng.

Với hầu hết mọi người, lòng kiên nhẫn, chân thành và phục tòng đối với quyền năng của Thượng Đế mỗi ngày trở nên kiên cường và thâm sâu hơn.

Nhưng dù là Semarang, Bogor, Jogjakarta hay Surabaya, những nơi Subuh khai mở và trợ lực cho thiên hạ trong latihan, cái quá trình đó đều y như nhau. Nhưng cuốn sách mà Subuh hỏi, đã tiên đoán:

'Latihan kedjiwaan chỉ thực sự phát triển được sau khi nó bành trướng khắp thế giới. Bởi cái latihan này là ân huệ của Thượng Đế cho mọi người thuộc mọi quốc gia và chủng tộc, không chỉ cho đất nước Java.'

Thực vậy, latihan hình như đã đạt tới một tình trạng này đối với những người được khai mở trong lúc đó tại Java – một tình trạng  trong đó chân ngã họ có vẻ như đòi hỏi tâm trí họ phải đạt tới một trình độ kiên nhẫn hay chân thành nào đó trong sự phục tòng Thượng Đế, và điều này thì khó khăn đối với vài người.

Khi Surahyo, con trai thứ 3 của Subuh chết trong năm 1933 lúc 2 tuổi, điều đó khiến Rumindah rất đau lòng.

Tuy chính Subuh đã tiếp nhận được trong latihan lâu trước đó là Surahyo sẽ không thể sống trên thế gian này, nhưng điều đó không mấy an ủi Rumindah, bởi cô rất thương đứa bé đó.

Tuy nhiên, Rumindah đã hết đau buồn và vui vẻ trở lại, khi họ tới Bogo sinh sống để cùng nhau khai mở cho những ai muốn theo tập latihan. Đứa con gái thứ hai, Hardiyati, sinh ra tại Bogor và điều đó khiến Rumindah được an ủi nhiều.

Tuy hoàn cảnh vật chất của vợ chồng Subuh thường thường thì chỉ đủ cung ứng cho những nhu cầu về thức ăn, quần áo và học phí, nhưng họ cũng luôn không biết được ngày mai sẽ có gì để ăn uống hay không.

Subuh đã làm tất cả những gì có thể làm, khi họ từ Bogor trở về Semarang, nhưng cuộc sống họ vẫn còn là làm ngày nào xào ngày ấy.

''Chúng ta hãy tới Wonorobo,'' Subuh cuối cùng nói sau khi họ đã trở về từ Bogor được một thời gian. ''Chúng ta sẽ bán căn nhà này, sẽ có một mớ tiền: hiện nay thành phố này đang phát triển.''

''Anh sẽ lấy số tiền đó mua một căn nhà nơi thôn quê. Một căn nhà với ruộng lúa. Anh sẽ là một nhà nông.''

Rumindah đồng ý: ''Mas, anh không thể kiếm một công việc thường xuyên, thì đó cách làm tiếp theo tốt nhất.''

Subuh đem nhà mình ra bán tại Kalisari.

Trong một lúc lâu, chẳng có ai muốn mua nhà. Nhưng rồi cũng có những ai muốn mua, và trong lúc lên đường tới đó để giao dịch, họ lại mắc bệnh.

Có trường hợp của những kẻ muốn mua, nhưng trước khi được dịp đến xem nhà, họ lại bất ngờ gặp trở ngại khiến không đến được.

Những chuyện như vậy xảy ra nhiều lần, rất nhiều lần.

Rumindah càng lúc càng nản chí.

Nhưng một hôm nọ có một sayid  [một người được coi là hậu duệ của Thiên Sứ Muhammed] giàu có đến thăm họ. Ông thích căn nhà, rất thích nữa là khác.

''Trong khoảng một tuần tôi sẽ đến một lần nữa, và chúng ta sẽ có thể thoả thuận về chuyện mua bán,'' ông nói.

Subuh, Rumindah và Kursinah phải bận bịu dọn dẹp, sửa chữa và sơn quét những chỗ này nọ.

Khi đến, vị sayid đó ngồi trong phòng khách. Ông trông rất giống một sayid: những nét mặt một người Ả Rập của ông gián tiếp cho thấy ông là một nhân vật có thể thuộc dòng họ của Thiên Sứ Muhammed.

Tại căn nhà ở kalisari của Subuh, ông sayid ngồi trong phòng khách nhìn Subuh một cách kính trọng lẫn thương cảm.

''Mas Subuh, xin thứ lỗi cho,'' ông chân thành nói. ''Tôi đã nghĩ kỹ lại kể từ lúc tới đây. Tôi không thể mua căn nhà này, ngay cả khi chỉ là ¼ giá tiền mà anh đòi. Anh hãy tin tôi, không phải là chuyện tiền bạc. Giá tiền anh đòi rất hợp lí.''

Subuh chưng hửng. Ông sayid đã lặn lội đường xa để tới đây, đã chịu mua, nhưng bây giờ lại có một chuyện bất ngờ xảy ra khiến người ta không muốn mua.

''Xin cho tôi được hỏi tại sao,'' Subuh lễ phép dò hỏi.

''Là chuyện này, anh bạn,'' ông sayid nói. Tôi có thể thấy anh rất muốn bán như thế nào. Nhưng tay tôi đã bị trói chặt. Sự thật là vậy, nhưng mong anh hiểu cho...''

''Chuyện gì vậy?'' Subuh hỏi.

''Tôi trông thấy một linh quang xung quanh anh.''

''Một linh quang?''

''Một linh quang thần diệu,'' ông sayid nói tiếp.

''Linh quang đó với tôi có nghĩa là anh được một đặc ân hay một điều gì đó của tổ tiên. Điều này là không thích đáng, thậm chí còn là tội lỗi, nếu tôi mua căn nhà của một người cao quý như anh.''

''Nhưng thưa ông, tôi chỉ là một phàm nhân!'' Subuh đáp.

Anh có thể cảm thấy sự hiện diện của Ruminah nơi hành lang. Cô đang nghe ngóng, sửng sốt.

''Chúng tôi cần bán căn nhà để có thể mua một nông trại, khiến tôi có thể làm việc và yên tâm phụng thờ,'' Subuh cho hay.

''Anh bạn,'' ông sayid từ tốn nói, ''anh phải biết là mình không cần lo lắng về bất cứ gì. Hiện nay thì mọi việc có vẻ khó khăn, nhưng đó chỉ là tạm thời. Sau này, tôi tin chắc là vậy, cuộc sống anh  sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Hãy kiên nhẫn!''

Ông sayid từ biệt ra đi khiến Subuh cảm thấy trơ trọi.

Sự cố đó quá sức chịu đựng với Rumindah.

 Cô bắt đầu nghĩ có lẽ con đường của latihan kedjiwaan là nguồn gốc những khó khăn của họ.

Rumindah vô cùng nhạy bén cảm thấy cơn túng quẫn của gia đình. Cuối cùng cô cảm thấy mình không thể chịu đựng được nữa.

''Mas,'' cô năn nỉ, ''anh làm ơn đi kiếm lại một việc làm thường nhật đi. Anh hãy đi làm như mọi người. Chắc chắn là Thượng Đế sẽ thông cảm.''

Nhưng Subuh luôn nhớ tới điều này trong cuốn sách mà mình đã tiếp nhận, là phải bỏ 12 năm trời tận tâm cho latihan.  Anh thực sự cảm thấy tình trạng sự phát triển của latihan kedjiwaan – một tình trạng chỉ đơn thuần là tiếp nhận và tuân hành nhưng đòi hỏi phải kiên nhẫn và dũng cảm – đang trong cơn bấp bênh.

Có nhiều người đã được khai mở đang có những trải nghiệm mà anh phải giúp họ thông qua  và hiểu được. Để được như vậy, anh chia sẻ với họ những trải nghiệm của mình, khiến họ cảm thấy thoải mái và cương quyết. Những giảng giải của anh khiến họ hiểu thấu được cái ân huệ phi thường của Thượng Đế trong latihan kedjiwaan. Nhưng làm điều đó thì hầu như chiếm hết thời gian của anh.

Anh biết là nếu kiếm một công việc đi làm thường nhật trở lại, anh sẽ phải không coi trọng những ai cần sự trợ lực của anh, và như vậy là coi thường bổn phận của mình đối với Thượng Đế.

Dự tính trở thành một nhà nông của anh – điều có thể khiến anh kiếm sống và đồng thời tận tâm săn sóc những ai theo tập latihan – đã không thành hình. Có điều gì khác đáng làm, khiến anh vừa có thể tự đứng trên bàn chân mình, vừa thi hành được nhiệm vụ đối với latihan?

Nhưng Rumindah không còn muốn chấp nhận sự lựa chọn của chồng mình nữa.

Cô cảm thấy bị đau ốm, đau ốm trầm trọng, và cô quyết định nghe theo đề nghị của bố mẹ mình là về Rembang ở chung với họ. Muhammed Subuh đem cô tới đó cùng với đứa bé gái họ là Hardiyati.

Căn bệnh của Rumindah càng lúc càng trầm trọng hơn.

Subuh ở bên cạnh cô trong nhiều tháng, bất lực nhìn sự sống của cô dần dần suy yếu, dù với tất cả những gì anh đã tiếp nhận được trong latihan. 'Sự sống và chết của con người hoàn toàn do Thượng Đế định đoạt,' Subuh nhớ tới điều đọc được trong cuốn sách thứ hai.

Năm 1937 là năm Rumindah, người vợ yêu dấu của anh, qua đời.

''Xin để cho Hardiyati ở với chúng tôi,'' bố mẹ Rumindah nói, ''chúng tôi sẽ nuôi nó cho tới khi nó lớn.''

Subuh không thể từ chối. Anh cầu nguyện cho Hardiyati sẽ là niềm an ủi cho họ vì nỗi đau buồn mất đi một người thân.

''Một lần nữa,'' Subuh nghĩ, ''cuốn sách đã tiên đoán đúng. Mình không thể tin những gì đã đọc được: 'Vợ ngươi sẽ không thể đi theo ngươi.' Sau này, mình còn thấy viết: 'Vợ ngươi sẽ cùng người đi du hành khắp thế giới.' ''

Bây giờ anh là một kẻ góa vợ với 4 đứa con đang lớn.

Tuy chưa từng làm ăn trong đời mình và cũng không có đủ vốn để làm ăn, nhưng anh cũng quyết định phải làm thử. Anh sẽ làm thử, và như vậy sẽ 'tự đứng trên bàn chân mình,' như cuốn sách đã chỉ cho thấy.

''Có lẽ như vậy mình sẽ làm tròn được bổn phận không những đối với gia đình, mà còn đối với cả latihan,'' anh nghĩ.

''Con có năng khiếu làm ăn,''Ibu Kursinah đã từng nói. ''Cái đó là thừa hưởng của Eyang Karto- Seh.''

Thực vậy, những hoạt động buôn bán khiêm tốn của Subuh khiến cho gia đình được bình an và lành mạnh, khiến cho cái khả năng phục vụ những ai theo tập latihan được duy trì.

 

 
     
 
   
  © 2018 góc nhỏ