Header image
 
 

Con sói lạc loài

Hoàn Hương viết 2007

 
     
 
 
Mục lục
      - Phần 1
      - Phần 2
      - Phần 3
      - Phần 4
 

 

 

Phần 1

Moli là một chú sói xám đã được sáu tháng tuổi. Chú có bộ lông trắng pha lẫn màu xám bạc lợt lợt, hơi ngã vàng. So với các anh chị thì bộ lông của chú có màu sáng hơn, mịn màng hơn.

Sáng nào các anh chị và chú đều được cha mẹ dắt đi săn mồi, chú rình rập như cha mẹ chú thường làm. Chú nằm sát xuống cỏ, bò chậm rãi, mũi hướng về con mồi, thường là thỏ, chồn, hươu, nai. Nhưng chú thích nhất là mấy con chuột, cắc ké, rắn mối. Nếu chộp được mấy con vật đó, chú không phải chia phần cho ai hết. Nhưng cha chú không thích chú săn mấy con thú nhỏ đó, và biểu lộ sự không bằng lòng này bằng cách nhìn nghiêm nghị có ý quở trách. Chú hiểu được điều đó nên vội có ý xin cha tha thứ, bằng cách cúp đuôi, chạy lại liếm mặt mũi cha. Cha chú để mặc chú quấn quýt lăng xăng, và lắng nghe tiếng rít xin lỗi nho nhỏ của chú phát ra từ cổ họng như nghẹn lại. Còn mẹ chú, thì đứng nhìn với đôi mắt thông cảm, chờ chú chạy đến để hít lấy mùi thơm đặc biệt từ cơ thể chú phát ra, mùi mà chú không biết. Nhưng mẹ chú phân biệt rất rõ.

Trong đàn sáu con, mẹ chú thường để ý và chăm sóc chú nhiều nhất. Chú là út của đàn, vì vậy thân thể chú nhỏ hơn các anh chị, do đó dễ bị các anh chị lấn áp khi bú mớm hay khi ăn thịt các con mồi do cha mẹ săn được. Chú thường bị các anh chị táp vào mặt khi dành vú, chú phải tránh xa vì dành không lại do bị cắn quá đau. Nhiều lúc đau quá, dù vẫn còn đói, nhưng chú đành đứng nhìn các anh chị và chờ cho họ đã no bỏ đi, chú mới rón rén đến bên mẹ để bú tiếp. Thông cảm với đứa con nhỏ yếu của mình, mẹ chú nằm chờ đợi cho chú bú rất lâu, nhiều khi bầu vú không còn sữa, mẹ chú cảm thấy đau rát mỗi khi chú nút, nhưng bà ta vẫn nhịn chịu đau, đợi đến khi chú bỏ đi mới thôi nằm.

Càng lớn chú xa dần vú mẹ để tìm ăn những con thú săn được, nhưng khó mà ăn cho trọn vẹn, vì cả đàn tranh nhau dành những phần thịt ngon nhất, chỉ chừa lại cho chú phần thịt thừa còn sót dính trên các khúc xương. Chỉ có những lúc cha mẹ cùng các cô chú săn được một con mồi to, may ra chú mới có được bữa no nê, nhâm nhi thưởng thức mùi thơm của máu và mùi ngọt của thịt.

Khu rừng nơi gia đình sói xám trú ngụ, được bao phủ bởi những thân cây già dày đặc lâu năm. Moli không biết khu rừng này có tự bao giờ, chú chỉ hiểu rằng chú đang sống trong một môi trường có rất nhiều điều mới, mà mỗi ngày chú mỗi khám phá ra được. Đó là khám phá ra các con thú lạ. Chú không phân biệt được thú nào là dữ hay hiền. Vì vậy, khi trông thấy một con thú lạ, chú không ngần ngại đến gần, để dọ dẫm, sờ mó, hít hửi. Chú muốn biết mỗi con vật khác nhau ra sao, cách hoạt động của chúng thế nào. Nếu những con vật vô hại đối với chú, thì cha mẹ để mặc tình chú muốn làm gì thì làm. Nhưng nếu con thú đó nguy hiểm mà chú cứ lao vào tìm hiểu như bình thường, chú liền bị cha chú cảnh cáo bằng những cú táp đau điếng. Điều này xảy ra khi lần đầu tiên, cả đàn đi đến một dòng sông rộng, nước ròng làm lộ bãi sình khá dài.

Cả đàn đi xuống tìm nước để giải khát. Chú nhìn thấy những con sấu nằm trên sình, miệng há hốc chẳng chịu khép lại. Tò mò chú định mon men đến gần, vừa đi vài bước bỗng một cú táp vào mông, chú la hét vội chạy ra xa và đứng quay đầu lại nhìn, thấy cha chú nhăn nanh tỏ ý cảnh cáo. Vừa lúc đó, chú thấy con sấu đột nhiên trườn rất nhanh về phía một con sói lớn trong đàn, con sói vội nhảy xa và cứ bình tĩnh nhảy cách con sấu một khoảng cách an toàn. Con sói này dường như không hề sợ nguy hiểm do con sấu mang lại. Nó biết sự nguy hiểm đó có giới hạn. Moli quan sát và hiểu ra vấn đề. Nếu là chú, chắc chắn chú sẽ đến gần con sấu nằm trong giới hạn nguy hiểm, và có thể sẽ mất mạng dễ dàng với cú vồ mồi bất ngờ quá nhanh của con sấu.

Lần khác trong lúc nô đùa với bầy, Moli đã chạy tách khỏi đàn, cha mẹ chú nằm cách đó không xa lắm. Thình lình chú ngửi thấy một mùi rất ghê rợn, làm da lông chú nổi xù lên, chú dáo dát nhìn và hướng mũi về phía phát ra mùi hôi. Chân chú tự nhiên run lên, dường như có ai đó túm lấy bốn cẳng chú cột lại, chú khuỵu xuống và không còn cử động được, mồ hôi toát ra, chú đái dãi xuống đất mà chẳng hề hay biết. Trước mặt chú vừa xuất hiện một bộ mặt rằn ri của con cọp, chú có nghe cha mẹ diễn tả về cọp, nhưng đây là lần đầu tiên thật sự chạm mặt với nó. Đây cũng là lần đầu tiên chú cảm nhận được nỗi sợ là thế nào, nó đến hoàn toàn không hề báo trước, thật bất ngờ. Chú không hiểu tại sao toàn thân chú lại có phản ứng bủn rủn và bất lực đến như vậy. Từ nhỏ đến giờ chú chưa bao giờ có trạng thái này, nó ở đâu xuất phát ra vậy? Chú nằm im thinh thít, cặp mắt bất lực len lén nhìn những bước đi nặng nề, chậm chạp của con cọp đang tiến về phía chú. Vừa đi nó vừa gầm gừ, càng đến gần Moli, mùi hôi càng nồng nặc thêm. Đôi mắt Moli giờ đây đã đờ đẫn, không còn một chút thần sắt nào, lấm lét nhìn xuống đất, đành lòng chấp nhận mọi tình huống có thể xảy ra. Con cọp đến bên Moli, nó cảm thấy con sói đã thuần phục nó, cái cảm giác này của Moli, không tạo cho nó sự phấn khích thèm thuồng, không kích thích cái bản năng thích quật ngã con mồi trong tư thế chống cự. Có lẽ thói quen rượt đuổi khi vừa thấy con mồi vừa chạy vừa hoảng sợ, làm tăng khả năng giết chóc của nó nhiều hơn là giết con mồi sống mà không chống cự, điều này không thích thú lắm. Nhưng cũng có lẽ cọp ta đã no rồi. Sau một lúc đứng nhìn, hít hửi Moli, con cọp lủng lẳng bỏ đi. Thời gian trôi qua không biết bao lâu, thình lình chú nghe tiếng sủa hùa của đàn, dồn dập, tới tấp. Nhưng không phải là tiếng sủa để đánh nhau, mà đó là tiếng báo động nguy hiểm phải tránh xa.

Bấy giờ Moli mới sự tỉnh, sức lực ở đâu bỗng ùa đến, chú bèn đứng bật dậy, đôi tai vểnh cao và phóng như bay về hướng của đàn. Chú chạy bất chấp cây nhọn hay gai góc cản đường, chạy như bay trên các ngọn cỏ, tiếng la sủa của đàn đã chỉ hướng để chú theo đó mà lần tìm. Dần dần tiếng sủa bớt dồn dập và bớt khủng hoảng, thay vào đó là những tiếng kêu ứ, ứ… ứ mừng rỡ khi cả đàn gặp lại nhau. Gia đình chú đã đoàn tụ mà không bị một mất mát nào. Chú sung sướng cọ đầu vào hông mẹ, cọ mình vào cha và liếm vồn vã thân mình của những người thân.

Sau lần đó, Moli đã hiểu thêm rằng cái bản chất sợ là điều hết sức bí ẩn, nó không cần phải học để biết. Vì sao sự nguy hiểm khi gặp cá sấu, chú không có cái cảm giác khuất phục đến mức độ chẳng còn biết mình là ai. Như vậy, phải chăng cọp đối với sói là điều đại kỵ, không có cách chống trả sự vô ý thức này sao? Chú chưa có câu trả lời, điều thắc mắc này sẽ đọng lại rất lâu trong tâm trí chú.

Moli đưa mắt nhìn cha, do cái sợ hãi đã làm chú quên hết mọi sự quan sát, vì vậy chú không nhìn thấy được vẻ mặt của cha trong cơn hoảng loạn vừa qua ra sao. Chú luôn đánh giá sự trầm tĩnh và khả năng tự chủ rất cao độ của cha. Chú muốn biết cách xử sự của cha trong tình huống nguy hiểm trên như thế nào. Chú đang học cách để hình thành cho mình một phẩm chất sói thật sự, giống cha vậy. Bởi ở trong đàn chỉ có cha làm cho chú ngưỡng mộ hơn hết. Đôi mắt lạnh lùng và phớt lờ của cha chú ẩn chứa một sức mạnh vô hình, luôn như toát ra một quyền uy làm những con sói khác phải phục tùng. Đó là điều rất cần thiết trong việc duy trì trật tự của đàn. Chú thật sự chưa biết điều này, nhưng chú biết rằng tất cả những con sói khác, kể cả mẹ, đều rất nể sợ cha chú.

Thông thường cha Moli rất ít đùa giỡn, có khi cả bầy nô đùa với nhau, thì cha lại tách riêng ra nằm ở một chỗ cao ráo, nằm quan sát cả bầy. Chú nghĩ rằng cha không thích bộc lộ tình cảm với ai. Nhưng chú không hiểu, sống giữa rừng già này, mọi sự chết chóc có thể xảy ra do một phút lơ đễnh. Cha chú luôn cảnh giác điều đó.

*

Càng lớn Moli được cha mẹ dẫn đi săn xa hơn, và cũng là cách tập cho đàn biết sống tự lập. Thỉnh thoảng cha mẹ tìm cách bỏ chúng lại một mình, nhưng Moli vẫn tìm cách đánh hơi để tìm về được. Nhưng mức độ khắn khít với đàn dần dần lơ đi trong tâm, chú đã quen dần với khu rừng mênh mông này. Chú đã sục sạo nhiều nơi hoàn toàn không có một mùi sói nào lưu lại. Có khi chú đi xa bầy hai, ba ngày, nhưng cái cảm giác cần tìm bầy lại không hiện ra trong tâm trí chú. Vì vậy chú cứ đi xa hơn về các vùng ít thú hơn, ở đó chú thấy những con vật lạ lùng hơn, mãi sau này chú mới hiểu đó là con người. Con người trong bộ tịch thật hiền lành, nhưng chú luôn cảnh giác, không dám đến gần họ quá. Sau nhiều lần lui tới chỗ ở của họ, được bao bọc bởi những hàng rào tre và xương rồng, chú cảm thấy yên tâm hơn. Thái độ chủ quan này là bài học quá đắt giá.

Moli núp sau một thân cây đã mục, quan sát những hoạt động của những người trong làng. Họ đi tới lui dường như bận rộn lắm. Có người đi vào rừng, có người cuốc đất trên các rẫy bắp, rẫy mì, có người đội củi về… Chú còn nhìn thấy những con trâu, con heo, gà, vịt chạy lăng xăng bên trong lũy tre. Mọi người, mọi con vật, ai cũng có công việc riêng. Sau một hồi ngắm nhìn họ, Moli định quay về, thình lình chú nghe phía sau có tiếng chó sủa, giựt mình, chú quay lại. Trước mặt suất hiện hai con chó mực, đang cách chú không xa và cùng sủa về phía chú.

Chú thủ thế nhe răng và đứng gầm gừ lại, hai con mực sủa dồn dập, báo hiệu sắp có tai họa. Chú nghiêng mình đi tạt sang bên, nhăn nanh hăm doạ. Hai con chó dường như đoán được ý định bỏ trốn của chú, bèn chồm tới gần hơn, nhưng chưa dám tấn công. Bất ngờ một mũi tên từ đâu bay đến cắm phập vào bên đùi sau, làm chú đau quá quên cả nguy hiểm, phóng chạy như bay về phía rừng. Mũi tên không cắm vào chỗ nghiệt, vì vậy trong những bước chạy có khập khiển đôi chút, nhưng chưa đến nỗi làm chú ngã gục. Hai con chó đuổi theo, vừa chạy vừa sủa, còn Moli vừa chạy vừa la hốt hoảng. Rất may cho chú là cả đàn cũng vừa xuất hiện, lũ chó biết mình yếu thế nên quay đầu bỏ chạy. Chú cố gắng chạy về phía bờ suối, vết thương đã thấm đau, chân bị thương từ từ không còn cử động được, chú đứng lại, cà nhắc từng bước một, thỉnh thoảng quay đầu lại liếm vết thương, máu đã chảy ra khá nhiều. Chú nằm xuống, cố quay đầu cắn mũi tên ra, nhưng sức đã yếu. Vì vậy chú thấy mình không còn hơi để nhổ nó được. Chú nằm im, hơi thở ngắn, đứt khoảng, cả đàn đang vây quanh, cha chú vội đưa răng cắn mũi tên, hai chân trước đè lên đùi chú, và dùng sức nhổ mạnh. Mũi tên vụt ra, chú la hoảng lên và ngất đi, cả đàn thay phiên nhau liếm máu cho chú.

Khi tỉnh lại, điều đầu tiên chú cảm nhận là sự đau đớn từ vết thương, chú mệt nhọc vô cùng, không thể di chuyển đầu để liếm vết thương được, chỉ đưa mắt nhìn nó. Máu đã khô, nhưng khối thịt bị thương bầy nhầy trông thật gớm ghiết. Ruồi nhặng bu lại để hưởng hương vị của máu. Chú nhắm mắt để mặc tình chúng và chú lại thiếp đi. Moli đã nhiều lần tỉnh lại và thiếp đi như vậy, không biết mấy ngày trôi qua. Nhưng dần dần chú thấy cơn đau bớt hơn. Vòi đã tấn công vào da thịt, chú đưa dược lưỡi liếm những con vòi và dùng đầu đuổi bầy ruồi. Chú thấy khát và đói, chú lết gần đến bờ suối, nhấm nháp dòng nước mát trong lành. Mẹ chú từ đâu đi lại, đem cho chú một miếng thịt. Chú nhai ngấu nghiến, tuy miệng còn lạt nhưng cái đói đã kích thích chú ăn thật ngon trong khi mẹ liếm vết thương cho chú. Thân thể chú đã gầy và yếu quá, lết vài bước đã mệt vô cùng. Nhưng sau khi ăn uống, chú thấy có khỏe hơn, tuy nhiên đôi mắt vẫn cứ muốn nhắm luôn. Chú không cưỡng lại được.

Nắng đã chiếu thẳng xuống chỗ Moli nằm. Ánh nắng của mặt trời làm thân thể chú ấm hẳn lên. Vết thương lành lại dần. Chú đã ý thức rất rõ về sự cần thiết có mặt của cha mẹ và bầy. Ngày nay chú còn tồn tại là do sự hiện diện này. Sợi dây tình cảm đồng loại chính là động cơ cắt đứt các ý nghĩ tách xa đàn của chú. Tuổi trẻ bồng bột, nông nổi khi luôn mong muốn tự làm chủ lấy mình mà không cần sự giúp đỡ của những ai xung quanh. Moli giờ đây đã hiểu đó là sự suy nghĩ thiếu chính chắn. Tự chủ là điều cần thiết nhưng phải chờ tới thời gian chín mùi, khi đã tích lũy được những kinh nghiệm học hỏi từ bầy đàn, từ những bậc tiền bối đi trước. Sự vội vã, nôn nóng chẳng giúp ích được gì. Vả lại điều mong muốn khác xa với khả năng thực tế, Moli cảm thấy rằng nạn tai là điều thật sự có ích cho cuộc sống của mình.

Thời gian nằm tĩnh dưỡng là dịp để Moli nhớ lại cái chết tưởng chừng đã cướp chú đi. Sự đau đớn hành hạ thân xác và tâm trí chú, đã giúp Moli ý thức tới đời sống thật mong manh. Giữa sự sống và cái chết khó phân biệt được ranh giới phân chia chúng. Có những cái chết trong nháy mắt, đó là những con mồi do bầy của chú giết. Vậy cái chết là gì? Ngoài cái thân xác và máu thịt bị tiêu diệt, còn có gì nữa không. Bởi nếu chết là xong hết mọi việc, thì tại sao chú đã có dịp chết rồi nhưng được sống lại? Tại sao cái chết của chú tưởng chừng như dễ dàng, nhưng chú lại khó chết? Vì vậy Moli nghĩ chắc còn có một điều gì khiến chú phải sống, nó ở ngoài sự mong cầu và ý chí của chú.Điều khiến cho sự sống tồn tại rất tự động, rất tự nhiên, nhưng chắc chắn phải có một qui luật, đúng thời điểm sống đến chú sẽ sống và tới thời điểm chết chú sẽ chết. Cái thời điểm kia, phải ghi đâu đó, giống như tới giờ mặt trời mọc lên và hết giờ mặt trời lặn xuống. Sự tuần hoàn kia phải có một bộ máy tự điều khiển. Tới giờ Moli đói, bộ máy đó khiến chú phải đi kiếm ăn, no rồi khiến chú tìm chỗ nghĩ ngơi. Tất cả sự tự nhiên đó không nằm ngoài cái vòng quay muôn thuở, vòng quay sống chết. Nhưng điều quan trọng không phải nằm trong sự sống chết, mà chính là ý nghĩa của sự sống chết là gì?

Cuộc sống còn dài, tới lúc nào đó mình sẽ hiểu, Moli tự an ủi. Không lẽ chú có quyền giết những con mồi, lấy cái chết của chúng để làm sự sống cho mình. Rồi mình sẽ là cái chết để nuôi những con thú mạnh bạo hơn. Để làm chi vậy? Điều này sẽ đi đến đâu? Phải có mục đích gì về điều này? Moli tự hỏi. Chú đem điều này hỏi mẹ. Bà không trả lời được vì bà không nghĩ tới. Chú hỏi cha nhưng cha chú cũng im lặng, chỉ khuyên chú rằng hãy sống cho đáng sống, còn chết thì đừng nên nghĩ đến. Bởi vì khi chết rồi thì ai còn biết gì nữa mà thắc mắc.

Nhưng đáng sống phải thế nào? Ngoài những cuộc săn bắt, đùa giỡn và bảo vệ đàn trước kẻ thù như từng diễn ra hằng bao lâu nay, sự sống đó đã đáng chưa? Nếu quan niệm gọi là đáng sống, thì chẳng qua chỉ để nuôi thân thể này tồn tại, mà bất cứ con thú nào cũng đều làm được theo cách của chúng. Như vậy đáng hay không đáng chẳng khác gì nhau hết. Chắc chắn sự sống phải hơn thế nữa. Nhưng điều này thật khó bày tỏ cho những ai đang ở gần chú, vì không một ai có thắc mắc như chú cả. Hay là tại những người khác không có thời gian quá dài, và từng bị thương như chú. Nếu chú đã có dịp nghĩ đến, thì chắc những đồng loại của chú cũng có dịp nghĩ như vậy, nhưng khi không giải thích được bèn bỏ qua.

***

Không hiểu điều gì đã làm cho Moli luôn thắc mắc. Khi còn khỏe mạnh, chú thắc mắc về những chuyện xảy ra chung quanh, như đi tìm hiểu cuộc sống khác ngoài bầy đàn, đi tìm thức ăn khác ngoài những con thú săn được. Cây cỏ đã giúp rất nhiều cho chú khi có bệnh, chú đã từng nhấp nháp một vài loại cây lá đã làm sức khỏe tăng thêm hoặc giúp chú dễ chịu khi ăn uống khó tiêu hoá. Còn giờ đây khi nằm một chỗ, có lẽ vì vậy nên những câu hỏi không còn hướng ra ngoài được, nên chúng bèn quay vào trong, để cho thời gian quá sức nhàn rỗi kia được lấp đầy và trôi qua nhanh chóng.

Nhưng phải chi những sự nghi ngờ đó cũng trôi luôn theo thời gian thì sướng biết mấy.Đằng này chúng cứ vướng lại trong tâm trí Moli mỗi ngày một nhiều hơn, quanh đi quẩn lại mãi, vì chưa được giải quyết. Chẳng những vậy chúng còn phát sinh thêm những thắc mắc khác. Nhiều lúc chú không còn cảm giác thấy đói nữa, vì những dòng tư tưởng kia đã chiếm hết chỗ cảm giác đói khát. Chú để ý rằng nếuchỉ nghĩ về ăn uống, thì cái đói khát đến rất nhanh, nhưng khi quên chúng do những điều không được giải thích trên thúc đẩy, Moli thấy mình như đã ăn và uống những ý nghĩ đó, chúng khiến chú thấy no. Đó là kinh nghiệm mà Moli đã rút tỉa trong lúc dưỡng thương, ngoài ra chúng còn khiến chú quên đi sự đau đớn do vết thương gây ra. Moli khá ngạc nhiên về sự việc lạ lùng kia, chúng đến với chú thật tình cờ, nhưng chú đâu biết rằng chính những sự việc này đã dẫn dắt chú hình thành cho mình những tư tưởng vượt xa và cao hơn đồng loại trong tương lai. Tuy giờ đây chú không thể giải thích được. Đó cũng là những kinh nghiệm mà một số ít đồng loại xa xưa của chú đã từng trãi. Điều mà thỉnh thoảng chú nghe mẹ kể lại trong những câu chuyện cổ tích, về những con sói có quyền năng biết biến hóa thành người, hay biến hóa thành lương thực cứu đói cho cả đàn trong những trận thiên tai, do hạn hán, do bão lụt, do cháy rừng, gây nên chết chóc cho cả rừng suốt một thời gian dài đầy tang tóc.
Như vậy sự sống là điều quý báu, vì chẳng có một sinh vật nào muốn chết cả. Tất cả đều đấu tranh để sống còn, tất cả đều giành giật vì miếng ăn, chính sự sống giữ cho mạng sống tồn tại. Có lẽ vì vậy nên khi tử thần đến tất cả đều chạy trối chết, chạy trốn lưỡi hái của tử thần, bởi những sức mạnh và những hàm răng to khỏe của kẻ thù. Đó là phản ứng tự nhiên, đó là định luật của Trời Đất đã tạo ra như vậy, bản chất tham sống sợ chết, là điều có sẳn trong mỗi sinh vật. Nhưng có những sự ngoại lệ.Điều này đã xảy ra một lần đối với Moli. Lúc đó, khi còn khỏe, trong một buổi đi kiếm mồi riêng lẻ, chú tìm được một hang chuột. Thịt chuột là món ăn khoái khẩu của Moli bấy giờ. Sau khi đào bới một hồi chú thấy một ổ chuột con, thình lình chú bị con chuột mẹ, có lẽ đi kiếm ăn bên ngoài trở về, thấy ổ bị phá, gây nguy hiểm cho các con, nó không ngần ngại nhảy lại cắn mạnh vào chân sau của Moli, làm chú giật mình nhảy chồm tới rồi quay đầu lại. Con chuột mẹ nhe răng và phóng tới đưa hai chân trước tát vào người Moli, chú có phản ứng tự nhiên nhảy lùi lần nữa. Tại sao con chuột này dám can đảm chống lại chú. Chú thấy đôi mắt giận dữ của nó cũng phóng ra những tia nhìn chẳng biết sợ là gì. Chú bước vòng qua bên, con chuột mẹ vẫn nhảy theo hướng di chuyển của Moli và nhe răng khè hăm dọa. Nhưng dù có chống trả cách nào đi nữa, cuối cùng Moli cũng chộp được nó.

Moli đã chứng kiến cái bản năng ham sống sợ chết của con chuột mẹ này đã biến mất, chỉ còn bản năng bảo vệ con bằng mọi giá. Như vậy cái chết đâu phải là điều đáng sợ. Bình thường cái chết đáng sợ cho mọi loài thật, nhưng nếu có một động cơ để hy sinh, mà nhất là bảo vệ bầy đàn thì chết chẳng còn phải sợ nữa, dù kẻ thù có to lớn đến đâu. Moli đã nghiền ngẫm về cái chết của con chuột mẹ. Từ đó chú luôn cố tạo cho mình một ý tưởng về bầy đàn. Chú suy nghĩ rằng, cứ sống mãi với ý tưởng đó thì chắc chắn cái cảm giác co đầu rút cổ, đái vãi ra đất lúc nào không hay, lúc đối mặt với con cọp trước đây của chú, chắc chắn sẽ biến mất. Trạng thái trước kia của Moli do chú chưa tạo cho mình một lý tưởng để sống, lúc đó chú chưa có mục đích gì cả, kinh nghiệm về đời sống của chú còn non nớt. Những yếu tố đó đã gây cho chú có phản ứng tự nhiên của mọi loài sinh vật. Mỗi bài học kinh nghiệm, tạo cho chúng ta cách đối phó, và thường cái giá phải trả không rẻ, nhất là những điều mình chưa bao giờ được nghe thấy và từng trải. Làm sao biết trước được việc gì sẽ xảy tới, Moli nghĩ như vậy.

Moli thức giấc, trời vẫn còn tối. Gió rừng làm các cành lá cọ vào nhau phát ra tiếng xào xạc, rì rào nối tiếp không dứt, tạo thành khúc nhạc vang lên như tiếng thiêng của núi rừng, diễn tả sự sinh động của một cuộc sống về đêm. Thỉnh thoảng một tiếng cọp gầm văng vẳng từ xa đưa lại. Rồi thình lình tất cả đều im bặt, khi gió ngưng thổi. Sự lặng thinh đó làm cho thính giác Moli có thể nghe được hơi thở của chính chú, rất ngắn, ngắt khoảng, xen lẫn với nhịp đập của trái tim. Chú vẫn còn sống, dường như cái chết không chịu đón rước chú. Sự ước mong giấc ngủ ngàn thu đến với chú khi cơn đau hoành hành không thực hiện được. Vậy phải sống thế nào đây? Chú tự hỏi mình. Nếu cuộc sống không còn ý nghĩa, thì thời gian còn lại có khác nào những tảng đá nặng nề đang đè lên mình. Nhưng rồi mọi việc vẫn tiến triển và cứ trôi đi như nước của một dòng suối. Chú biết có một điều gì đó mơ hồ trong trí, rằng sống chết không phải chuyện chú muốn mà được. Vạn vật đã như vậy tự mấy ngàn năm rồi và sẽ mãi mãi như vậy.

Chú liếm vết thương đang lành lại. Cái chân bị thương dần dần có cảm giác khi chú muốn nhấc lên. Sự đau đớn tuy vẫn còn đó, nhưng nó đã chịu sự điều khiển, không còn trơ ra như trước đây. Nếu muốn ít đau, chú phải kéo lê, thay vì phải cà nhắc chân bị thương để đi. Chú phải cố tập cử động nếu muốn có thói quen đi lại bình thường như trước đây.

Bình minh đã ló dạng, các bạn bè anh em của chú đã tụ lại dòng suối, mẹ đến liếm chú và liếm rất lâu vết thương của chú. Chú hít lấy mùi thơm thân yêu trên thân mình mẹ. Chú cố vẫy đuôi để đón mừng những thân thuộc. Ai cũng đến liếm chú như vỗ về an ủi. Cha chú đã ngoạm lấy một cái đùi thỏ đặt ngay trước mặt chú, chú hửi miếng thịt nhưng không ăn vội, chú chưa thấy đói khi nỗi vui mừng vẫn còn tràn ngập trong lòng lúc đoàn tụ với gia đình bè bạn.

Mẹ chú truyền cho chú cái tình cảm khắn khít, khuyến khích chú mau chóng được khỏe mạnh. Chú đưa mắt nhìn, thầm cảm ơn mẹ sau cơn hoạn nạn này. Moli cảm thấy mình trưởng thành và chính chắn hơn. Nhưng không biết vì sao, từ lúc bị thương tới nay, chú không coi mạng sống là quan trọng nữa, tuy chú biết rằng sự sống thật vô cùng quí giá. Giờ đây chú sống thanh thản quá đổi, chú không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nếu thình lình một con cọp nào đó xuất hiện. Nhưng điều chắc chắn rằng sự sợ khủng khiếp mà chú đã có lần đối mặt, hoàn toàn không còn trong lòng chú nữa. Chính chú cũng rất ngạc nhiên vì sự bình thản này. Trong lòng chú giờ đây không còn một cảm xúc nào về sự bận rộn hằng ngày như các thành viên khác, trong lúc các anh em chú vẫn luôn luôn bận rộn lăng xăng, chú không biết điều này có nên hay không? Chú không muốn mình phải khác đồng loại.

Các anh em của chú có nghĩ đến điều này không? Chú tin rằng chỉ có mình chú mới có ý nghĩa này. Bởi vì các anh em chú không thể nằm im trong vài giờ ngoài giấc ngủ thì chắc chắn ý nghĩa đó không thể đến được. Việc lo đi săn và nô đùa đã chiếm hết thời giờ trong ngày rồi. Đối với chú thời gian cho những chuyện đó rất ít và chú có quá nhiều thời gian rỗi để nằm chiêm nghiệm cho điều mình suy nghĩ. Vì vậy dòng suy tưởng cứ mãi tuôn ra không dứt. Nhưng tìm được lời giải thích cho sự thắc mắc của mình thì không có. Tự chú phải giải quyết thôi. Do đó chú rất cần thanh tịnh.

Cuộc sống hằng ngày không thể biến mất khi chú không muốn. Cái ý muốn là điều có thể thực hiện nếu chú quyết tâm. Nhưng cũng có những ước muốn chỉ để làm cho cuộc sống thêm thi vị. Chính sự sống trong ước mơ đã làm cho cuộc sống thêm nhiều màu sắc, giảm bớt sự nhàm chán mà cuộc sống khô khan thường ngày lập lại. Nếu chú chỉ sống với bản năng của một loài sói thì chú vẫn là một con sói đơn thuần, ăn uống ngủ nghê đùa giỡn rồi chết. Kể từ lúc hiểu ra được cái ý nghĩa vô vị của đời sống thường ngày mang lại. Chú càng cố công tìm lấy một lối thoát cho tư tưởng của mình. Chú tin rằng điều này sẽ cải đổi cuộc đời chú. Tuy hiện tại điều này chưa rõ ràng, nhưng cảm giác sẽ tìm thấy điều mong muốn đó cứ lởn vởn trong đầu. Chú phải chờ đợi, phải kiên nhẫn và bình tĩnh.

Moli đã đi lại khá dễ dàng, vết thương tuy có lành, nhưng xương và cơ, nơi bị thương vẫn chưa trở lại như cũ. Bước đi vẫn còn hơi sơ cứng và khập khiểng. Chú cố gắng tập đi theo bầy trong các cuộc săn mồi. Chú cố chạy thử, nhưng được một đoạn ngắn, chú phải dừng lại để nghĩ. Có lẽ máu không đủ cung cấp đến cái chân bị nạn, nên cơn đau lại nỗi lên, chú nằm xuống liếm vết thương đã lành, cái lưỡi nhám thô tác động lên làn da non của vết thương, làm dễ chịu các bắp thịt dưới da đang lần hồi tìm lại năng lực trước kia. Các động mạch và tĩnh mạch vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Chúng còn bị nghẽn ít nhiều, cho nên máu lưu chuyển qua đó ít hơn, làm cho các sớ thịt thiếu lượng ôxy cần thiết, và thiếu các tố chất tạo năng lượng bị tiêu hao khi di chuyển, do đó phát sinh cơn đau. Nguồn năng lượng cần thiết và lượng ôxy được bồi đắp khi Moli đứng lại hay nằm xuống, nhờ vậy cơn đau giảm dần và biến mất. Sau đó Moli lại tiếp tục di chuyển, chú đã tập luyện như vậy rất nhiều lần. Sự lập đi lập lại này có tác dụng làm cho cái chân đau của chú dần dần tìm lại cảm giác bình thường. Cảm giác sột soạt nơi bàn chân, cảm giác của những cọng cỏ quẹt vào cẳng chân, cảm giác của những cành cây nhỏ quất vào bắp đùi. Mỗi bước đi và chạy của chú dẫm lên cỏ, những ngọn cỏ bị đè xuống rồi ngóc dậy khi chú phóng đi. Moli đã quay về với môi trường sôi động của bầy đàn. Cảm xúc được bay nhảy trở lại, tạo sự sung sướng ngây ngất trong lòng Moli. Niềm hạnh phúc trong giây phút này dường như hoàn toàn mới mẽ. Cây cỏ quất vào mũi, vào thân, vào chân, cùng với không khí mát mẻ của núi rừng đã hòa quyện vào chú như một khối hợp nhất, chúng trở thành một phần sự sống mà chú đang hiện hữu. Bước chạy càng ngày càng đều hơn và thoải mái hơn lúc đầu, chú tìm cảm giác thích thú trong sự chạy nhảy khá lâu, vì vậy khi được tự do tung tăng, không còn bị vết thương xiềng xích phải nằm ì một chỗ, chú chỉ biết nghĩ cho riêng mình mà thôi.

Khi đã thấm mệt, dừng lại nghĩ ngơi, chú mới sực nhớ đến bầy đã bỏ mất chú. Nhưng điều đó không quan trọng, chú đã ý thức được chính mình và mối quan hệ với bầy đàn ở trạng thái hưng phấn mới mẻ này. Trước đây mọi hành động của chú với bầy đàn hoàn toàn một cách tự nhiên vô thức. Bây giờ thì khác, chú biết mình phải làm gì, cần làm gì và tại sao như vậy. Đó là bổn phận, là trách nhiệm của chú, tạo cho chú một cái nhìn cảnh vật hoàn toàn mới. Tại sao chúng đẹp đẽ và đáng yêu quá vậy. Moli thưởng thức bầu không khí yên bình và hạnh phúc. Rồi dường như mọi thực thể ở chung quanh đang biến thành một cõi khác. Chú cảm thấy mình lâng lâng như mê như tỉnh, mọi tiếng động đều biến mất. Chú vẫn biết thể xác mình đang hiện diện, tâm trí mình vẫn đang điều khiển đôi mắt để nhìn, nhưng chú lại không thấy gì hết phía bên ngoài, cái thấy đang quay vào bên trong chú, xuyên qua thể xác chú, nơi có trái tim đang tải máu đi nuôi khắp châu thân. Chú thấy sự sống đang hoạt động từ bên trong, nơi cất chứa mọi sự ý thức của chú. Nhưng lần này sự hiểu biết không phải được truyền lại bởi cha mẹ hay bầy đàn. Sự tri thức này ở tận bên trong đâu đó, rất đột khởi, về những điều bí mật mà chú tự nhiên hiểu. Chú hiểu rất rõ những hành động đều do cái bên trong này chỉ huy, không phải do Tâm Trí chỉ huy. Chú thấy trung tâm chỉ huy này là bộ máy điều khiển toàn bộ thể xác bao gồm Tâm Trí, các cơ quan nội tạng, các bộ thần kinh, tay chân, đầu, mình, xương, thịt của chú. Bộ chỉ huy này không có hình dạng, không có màu sắc, không có trọng lượng. Nó hoàn toàn không có hình thù gì hết nhưng nó mới là kẻ đặt lệnh, phát lệnh và ra lệnh. Tâm trí và thể xác Moli nhận lệnh từ đây và thi hành. Trí óc Moli nhiều khi không bắt kịp mệnh lệnh này, nhưng vẫn thi hành một cách tự động, vì bộ phận chỉ huy này đã cài đặt một bộ phận điều khiển tự động giúp trí óc rồi, và Moli hiểu rằng, rất nhiều điều Moli làm trước đây, tâm trí chú không hề ý thức, là do bộ chỉ huy này giúp đỡ.

Moli biết bú móm khi mới sanh ra đời là do nơi này ra lệnh cho tay chân, miệng lưỡi của Moli quơ quào, tự động tìm được vú mẹ, và tự động đưa miệng vào bú. Khi đói tự động Moli la hét để báo động cho mẹ biết là mình cần sữa. Moli chỉ biết bú mà không hiểu vì sao mình lại làm được chuyện đó. Bây giờ thì chú đã hiểu. Đây là điều bí mật mà chú khám phá, chú chợt nghĩ đây mới là sự sống, đây mới là nguyên nhân của đời sống và cũng là nơi kết thúc đời sống. Chính sự sống này đã có trước khi thân xác và tâm trí ý thức được chính chúng. Như vậy có nghĩa là sự sống đã ở đâu đó trước khi thân xác này ra đời và cũng sẽ ở đâu đó khi thân xác này chết đi. Sự sống đã có đầy đủ tất cả, vì nó đã giúp cho Moli sở hữu bất cứ cái gì Moli cần đến. Muốn săn mồi, bộ phận tín hiệu tự động của bao tử báo đói, cái đói truyền về trung tâm này, nó ra lệnh cho bộ phận đánh mùi của khứu giác Moli phải đánh hơi một con vật cần ăn, rồi nó điều khiển tay chân mắt mũi, thân thể dồn về mục tiêu duy nhất là tìm mồi, thấy mồi và chạy đuổi theo mồi. Đó là các bộ phận thuộc hạ thi hành lệnh.

Trung tâm chỉ huy này làm việc không ngừng nghỉ, đến nỗi tâm trí và thể xác Moli phải mệt nhọc vì nó. Nếu đám thuộc hạ nhận lệnh thi hành chưa xong, thì trung tâm này kích thích chúng phải tiếp tục thi hành cho đến khi nào tín hiệu bao tử báo no rồi, thì nó tạm ngưng bộ phận hoạt động điều khiển săn đuổi, chuyển qua bộ phận hoạt động điều khiển nghỉ ngơi, như nằm hay ngủ.

Moli không ngờ rằng thân thể nó sống được đến ngày hôm nay là do trung tâm này điểu khiển. Moli được điều khiển và bị điều khiển, để luyện tập cho trí óc, thân thể Moli quen dần với đời sống chung quanh. Khi tâm trí và thể xác Moli thích hợp với cuộc sống, quen dần với môi trường sống, thì trung tâm này cũng rút bớt dần nhiệm vụ của nó và bàn giao lại cho tâm trí Moli, bấy giờ đã có được kinh nghiệm.

Tuy nhiên khi tâm trí bắt đầu ý thức được chính chúng và đã có kinh nghiệm, thì chúng lại quên kẻ đã giúp chúng sống được, quên mất kẻ đem lại sự ý thức cho chúng. Bởi vì môi trường chung quanh có quá nhiều thứ mà Tâm Trí chưa biết, chúng lo tìm kiếm những gì đang có, những gì đang hiển hiện trước mắt, những gì mà chúng tưởng là tay chân mắt mũi, nắm bắt ngắm nhìn là trường tồn có thật. Tâm trí quên mất nếu sự sống không hiện diện trong chúng thì chúng đã chết rồi. Moli và đồng loại từ trước tới giờ đã lầm lẫn vì đặt lòng tin vào Tâm Trí, vì tưởng rằng tâm trí là kẻ chỉ huy của sự sống. Giờ đây chú biết rằng mình thật có phước khi hiểu điều này. Tại sao đàn sói và loài sói vẫn mãi mê lao vào việc tìm miếng ăn, giành giật, đấu đá với nhau cho đến chết. Tại sao lại cứ lo phân chia cho bầy đàn, tranh giành lãnh thổ, đi tìm những điều tạm bợ một cách vô ý thức như vậy. Chúng chẳng có nghĩa lý gì khi hiểu biết về bí mật của sự sống kia. Cái bí mật của bộ chỉ huy đã chi phối toàn bộ cuộc sống ở thế gian.

Moli ngất ngây trong sự tri thức vô cùng này, thể xác như phập phều trôi trong không gian, cái cảm tưởng không có chỗ tựa của đôi chân đã làm Moli giật mình. Nhìn kỹ lại Moli thấy mình vẫn còn đứng yên tại chỗ, các tiếng động chung quanh đã trở lại với thính giác của Moli. Cây cỏ vẫn xanh màu muôn thuở, chú lại nhìn ra bên ngoài mình. Chú chậm rãi chạy về bầy, vừa cố nhớ lại giây phút kì diệu vừa qua. Chú chỉ biết tận hưởng, và không hiểu tại sao mình có được kinh nghiệm này.

Sáng nay, như mọi ngày sau một hồi đùa giỡn khởi động, cả bầy bắt đầu theo cha về phía trảng cỏ ngoài khu rừng. Nơi tụ tập các loài chim chóc và thú rừng. Nắng chưa lên cao lắm, sương còn đọng trên mặt lá. Bầy sói đi vào khu thú tập trung, chúng làm khuấy động tất cả, các con thú lớn đứng vây quanh các con nhỏ, chỉ có loài hươu nai thì sớm lo nên phóng chạy như bay, tránh xa sự có mặt của loài sói.

Cha Moli đang nhắm một con hươu mới trưởng thành cố phóng nhanh theo các con lớn, cả bầy sói giăng hàng đuổi theo. Các con hươu luôn đổi hướng chạy, nhưng các con sói chỉ chú trọng đến con hươu mới lớn chưa có kinh nghiệm, chưa đủ sức chạy đua với chúng. Cuối cùng nó bị một con sói bắt kịp, táp vào mông và ghì xuống thảm cỏ. Cả bầy sói nhào tới, cắn không chừa một chỗ nào trên mình con hươu đáng thương.

Mỗi con xé một mãnh thịt đầy máu me, kiếm chỗ riêng để nhâm nhi. Moli cũng tham gia và thấy khỏe lại sau khi ăn hết khẩu phần của mình. Những con hươu khác đứng xa nhìn bầy sói, chúng bất lực khi thấy đồng loại bị giết, có lẽ cảnh tượng này quá quen thuộc, nên chúng cũng không đến nỗi sợ lắm và tiếp tục nhai cỏ. Moli cũng nhìn thấy cảnh này, chú không biết các con hươu đó nghĩ gì.

Nhờ vận động đều đặn và ăn uống đầy đủ, Moli đã tìm lại sức lực của mình. Sau những giờ sống chung với bầy đàn ban ngày, chú thường tách mình riêng ra về đêm, chú muốn có thời gian để tìm hiểu thêm những điều bí mật về mình, những điều thắc mắc chưa có câu trả lời. Nhiều lúc do cố gắng tìm hiểu, chú tập trung sự chú ý quá mức làm đầu óc bị căng thẳng, để giải tỏa chú thường tru lên, đó là tiếng kêu gọi van xin sự giúp đỡ ở đâu đó. Không lẽ trời đất rộng lớn này không ai có thể giúp mình được sao? Chú tự hỏi: Vậy các vị thần linh mà mẹ chú thường kể chuyện không có thật sao? Nhưng ai đã nghĩ ra các vị ấy. Ai có thì giờ nghĩ ra những chuyện vẫn vơ như vậy. Chắc chắn phải có một thứ gì đó, và ai đó đã nghe hoặc nhìn thấy. Nhưng vì nó xảy ra thật tình cờ và quá hiếm hoi, nên thường không ai dễ gì thấy biết được. Nếu hiếm hoi nghĩa là có thật. Vậy tại sao mình không đặt lòng tin vào sự hiếm hoi kia. Biết đâu một ngày nào đó mình sẽ gặp…

Moli đang lắng nghe những tiếng tru của những con sói khác bầy từ xa vọng về, âm thanh tựa như lời cầu xin một điều gì đó. Tiếng tru của loài sói là tiếng hú gọi để truyền tải thông tin cho nhau giữa chúng. Chú nghĩ rằng có lẽ chú không phải là kẻ duy nhất thích tìm hiểu về bản thân mình và mọi vật chung quanh. Nhưng cái nỗi bậc nơi chú là thích tìm hiểu về chính mình nhiều hơn. Có thể rất khác với những con sói khác, do chú để ý thấy dường như chỉ có chú là thích nằm để trầm ngâm nhiều hơn các anh chị của chú. Chú thường bị ray rứt nếu điều suy nghĩ không được giải đáp.

Khi đã nhìn thấy được tận cùng bên trong sâu thẳm của tư tưởng, cùng những sự điều khiển thân thể hành động, xuất phát từ cái Trung Tâm vô hình bí mật kia, chú lại nghĩ rằng cái Trung Tâm này chưa phải là cái tột cùng. Đó là ý nghĩa mà Moli thường liên tưởng, khi có sự việc này thì đã có sự việc trước đó, dĩ nhiên đã có sự việc trước đó nữa… chú thấy bị kích thích về sự tò mò này. Việc vô tình thấy được cái bí mật về sự sống, khiến nhiều khi Moli muốn cảm nhận lại cảm giác lúc đó, nhưng vô ích, thật khó tưởng tượng và hình dung lại.
Tuy nhiên Moli vẫn còn được hưởng dư âm đã vang lên trong nội tâm mình, khiến chú cảm thấy mình yêu thương đồng loại hơn, yêu thương cha mẹ anh chị hơn. Moli thấy được sự khắn khít, san sẻ, hợp tác, phân nhiệm đều mang dấu ấn của một động cơ duy nhất, đó là sự tồn tại của bầy đàn và loài sói.

Nhưng Moli không chịu dừng lại ở đó, mà muốn tìm hiểu xa hơn nữa, tuy đã trải qua một thực chứng, nhưng có vẻ lạ lùng và khó tin, vì vậy dù Moli có nói năng hay diễn đạt cho đồng loại chung quanh kể cả cha mẹ chú, không ai trong số họ tin và hiểu chú muốn nói gì! Họ cho rằng chú nằm mơ, nên chẳng ai lưu tâm đến điều chú nói, và bầy sói vẫn cứ thích đùa giỡn, chạy nhảy tung tăng, khó có thể nằm yên để suy tư.

Có lẽ đùa giỡn, săn bắt, chạy nhảy có tác dụng làm cơ bắp tiêu hao năng lượng, để không còn đủ sức cung cấp cho bộ óc, khiến cho động cơ suy tư không hoạt động được. Vì vậy loài sói rất hiếm có những con sói thông thái, nhưng có rất nhiều con sói săn mồi rất giỏi, cho nên để tìm được ai chịu hiểu về điều Moli cảm nhận và ai biết giải thích về những điều bí ẩn nội tâm thật khó! Còn để tìm kẻ chỉ dạy cách săn bắt, thì hầu hết các con sói lớn đã làm rất dễ dàng.

Cứ mỗi lần lắng đọng tâm tư mình, Moli luôn tìm thấy cho mình những điều bổ ích mới. Nhưng lắng đọng tâm tư đừng cho bất cứ sự suy nghĩ nào còn lởn vởn trong đầu thì không phải dễ. Mỗi khi nhắm mắt các ý nghĩ của những chuyện quá khứ, hiện tại và tương lai cứ đua nhau nối tiếp đổ về.

Và kinh nghiệm của những lần trước để tránh tình trạng này, Moli bèn tập trung vào một ý tưởng duy nhất và theo đuổi nó, điều đó cũng giúp Moli bớt phân tán đầu óc, việc nầy thường làm mệt mỏi thân xác nhiều hơn là sự vận động.

 
     
 
   
  © 2011 góc nhỏ