Thành kính Phân ưu

Ông Richard Milles

Phụ tá của Bapak

Sanh ngày 05.04.1920
Tạ thế ngày 17.11.2019 lúc 13 giờ
Hưởng thọ 99 tuổi
Tang lễ cử hành lúc 11 giờ ngày 23.11.2019, tại Benaix Pháp Quốc.

Ông được Bapak Khai mở vào Subud
ngày 20.11.1959 tại Paris Pháp quốc

Nguyện cầu linh hồn Ông Richard Milles được Thiêng Liêng Toàn Năng đón về

Góc Nhỏ Subud

 
 
 

nguồn tin từ: Barata & Sudharmi Sophie

 
     
 

Để tưởng nhớ vị Đại Sư Huynh Subud, Góc Nhỏ trích một chương trong quyển sách của Anh đăng trên Góc Nhỏ do Minh Thần dịch. Quý Huynh đệ nào muốn xem lại toàn bộ quyển sách hãy vào góc sách hoặc theo đường link dưới đây:

https://www.gocnhosb.com/gocTaiLieu/Sach/En_SB_RdMilles/EnSB_00_LoiNoiDau.html

 
 

Latihan đầu tiên của tôi với Bapak và 50 người anh em khác

 
Richard Milles  
   

Một lần nữa, tôi lập tức lên xe đạp để lấy chuyến xe lửa đi đến một chỗ cách 12 cây số, ở Montereau pour Paris. Nhưng lần này, tôi cảm tưởng mình có cánh bay! Tôi được phóng mạnh tới Bapak. Toàn thân tôi đều muốn nhận được sự giao tiếp với Quyền Lực của Thượng Đế. Bởi mặc dù lối tập thiền định và việc đọc những thánh thư của mình, trong lòng tôi có vô số những mâu thuẫn tạo nên tình trạng nội tâm bị rối loạn. Thế nên, tôi đến với Subud như với một phao cứu đắm. Tôi không bất hạnh, nhưng trong lòng mình có điều gì thiếu thốn; cuộc tầm đạo của tôi không được thỏa mãn. Và tôi ước mong được một sự hiểu biết thực dụng thâm sâu hơn.

Tôi luôn là một người thực tế thích hiểu biết sự sống và những bí ẩn của nó qua kinh nghiệm hơn là qua những ý tưởng và những điều nghe người ta nói. Cái kinh nghiệm Subud có vẻ thích hợp với mình, và tôi rất muốn thử nó, không phải do hiếu kì, mà do một nhu cầu thâm sâu, không cưỡng lại nổi, của nội tâm. Thế nên, tôi đến Paris một cách cương quyết và không chút lo sợ, sẵn sàng nhận sự giao tiếp đó. Nếu hiện nay tự hỏi mình về sự sốt sắng đó, tôi lấy làm lạ tại sao mình vừa được Subud hấp dẫn, vừa được thúc đẩy tới đó một cách vui vẻ và tự do; đối với tôi Thượng Đế như một nam châm vĩ đại thu hút mình tới Ngài. Đó là bởi vì lúc khoảng 18 tuổi, tôi tự vấn về cuộc đời, về con con người. Nói thực ra mình may mắn được đau khổ trong thời niên thiếu, được đau khổ trong lúc bị lưu đày, có vẻ là điều khôi hài, tới nỗi cuộc đời đối với tôi không có ý nghĩa, nó khiến tôi thất vọng, và đối loài người thì cũng thế, tôi bơi lội trong một vũng bùn, và ước mong bơi lội trong nước trong mát. Tôi có một nhu cầu thâm sâu kiếm được một điều gì đó khác trong cuộc sống này, một điều cho phép tôi hiểu được nó, chấp nhận nó, thích nghi với nó, nghiệm được nó trong sự an lạc và hạnh phúc.

Khi trở về nước từ Đức, tôi tin tưởng chính trị và tranh đấu trong lòng một đảng phái, nhưng ngay cả trong điều này, tôi cũng đã không tìm thấy giải đáp cho sự tìm kiếm của nội tâm. Chính lúc đó là lúc tôi gặp những người đến từ phương Đông, những người qua gương mẫu của họ, qua giáo lí của họ, bắt đầu cho tôi thấy được quả thực có những điều khiến ta hiểu biết được sự an lạc đó, cái hạnh phúc mà Thượng Đế ban cho những kẻ quy phục Ngài. Nếu trước kia đọc những sách về chính trị, những cuốn sách tôi đọc đã thay đổi chiều hướng; tôi đọc về cuộc đời của các vị thánh của đạo Hindu, đạo Hồi, đạo Ki Tô, đạo Phật, vân vân... Song song với điều đó, tôi nghiên cứu Áo Nghĩa Thư (1), triết học Vedanta, Phật giáo, Lão giáo.

Nhưng tất cả những cái đó chỉ là ý tưởng; tôi vẫn còn tìm kiếm sự thức tỉnh của nội tâm, sự khai mở mà tôi đọc được những điều thuật lại trong nhiều tác phẩm, nhất là cuốn về cuộc đời của Ramakrisna, của thánh Jean de la Croix, của thày dòng Laurent de la Résurrection và nhiều vị thánh khác.

Những giao du của tôi cũng thay đổi, điều đó đương nhiên. Tôi lại đến Paris, trong một căn phòng rộng lớn đằng sau đại lộ Les Champs Élysées. Tôi đến đó với anh bạn Phật giáo, với người em mình là Robert, và khoảng 50 người khác. Chúng tôi đang ngồi thì Bapak đến với cái dáng điệu điềm tĩnh và oai vệ của người; người nói chuyện một lúc với ông Bennett, ông này bảo chúng tôi: 'Những người chưa tiếp nhận latihan hãy đứng hàng đầu, cách nhau vài thước’. Vậy, tôi thuộc những kẻ đứng đầu đối diện với Bapak đang nói năng rồi được ông Bennett dịch: đó là những lời khuyên giúp ta trong trạng thái nội tâm tiếp nhận được latihan kedjiwan Subud. Latihan bắt đầu, và hầu như tức khắc tư tưởng của tôi đứng lại. Tôi quan sát như một khán giả sáng suốt, trong lúc nghe những người anh em của mình đang tập latihan trong phòng, mà không bị điều đó làm phiền mình; đột nhiên, trong lúc mắt mình nhắm, tôi trông thấy đến từ phía xa thật xa một sao băng to lớn xoáy với một tốc độ thật nhanh, và cái đó đến thẳng phía tôi. Nó đi rất nhanh, và tôi không có thời giờ hỏi coi nó có đập thẳng vào mặt mình không; tôi rùng mình không vì sợ hãi mà vì một nỗi vui vô tận; một hạnh phúc tràn trề xâm nhập vào tôi, cũng như vào tất cả những tế bào của cơ thể, và trong đầu tôi có một sự say sưa êm dịu, một nỗi cực lạc chưa tùng cảm thấy trước đây. Điều đó rung động khắp nơi trong nội tâm; có điều gì mới lạ xảy ra trong lòng tôi, điều gì bất ngờ, nhưng đó lại là điều tôi tìm kiếm mà không từng biết nó. Tôi bình tĩnh quan sát cái đại hạnh phúc đó đang xâm chiếm mình. Kế đến tôi cảm thấy dâng lên một cái cười bao la. Trong tôi tất cả đều cười! Sao mà vui thế! Nó cười và cười...Một nỗi vui tràn trề thực sự, một sự bùng nổ đích thực...Như vậy mới là được giải thoát! Cái cười đó lắng xuống, khi tôi cảm thấy chỗ cuối nhất của xương sống phát điện, như mình bị cắm vào một phích điện; luồng điện đó nhanh chóng chạy khắp toàn thân tôi, và tôi trở nên nhẹ nhõm, nhẹ nhõm... Cánh tay tôi tự động đưa lên mà không có sự tham dự của ý chí: tôi như được kéo lên phía trên.

Thực ra, tôi đang phụng thờ Thượng Đế trong một niềm hạnh phúc có tính cách tự nhiên. Toàn thân tôi rung động dưới sự thúc đẩy của cái năng lượng đó. Tôi đã quên cả cái ý niệm về thời khắc, như mình ở ngoài thời gian. Tôi đang triệt để hưởng thụ sự ngây ngất đó, khi chợt nghe thấy một tiếng nói: 'Chấm dứt.' Trời, đã xong rồi! Một cách luyến tiếc, tôi để cánh tay mình hạ xuống trở lại; cái sức mạnh xâm chiếm tôi đi mất như khi nó đến. Tôi mở mắt, tôi đứng một mình giữa phòng. Bapak, ngồi trên một chiếc ghế tại một góc của căn phòng, đang thong thả hút một điếu xì gà.

Tôi thật vui mừng đi về phía Pierre, ông em tôi, và người bạn đã dẫn tôi vào Subud, tôi nó với họ: 'Thật tuyệt diệu, đó là niềm sung sướng hoan hỉ mà tôi tìm cách đạt được qua những lối thiền định của Phật giáo, nó có thật!' Anh bạn đó cho tôi là điên rồ; tôi không hiểu tại sao anh lại nói vậy! Ôi, điên rồ êm dịu đó... Sau 27 năm còn khiến ta mong chờ(2). Khi Bapak đứng lên để đi khỏi căn phòng, tôi đến trước mặt người để cám ơn bằng cách bắt tay người; tôi vẫn còn giữ một kỉ niệm sống động và cảm động về việc đó.

Đã muộn rồi và ngày mai đi làm, nên tôi về bằng xe điện ngầm, xe lửa, và đạp xe đạp tới Montigny, nơi bà vợ tôi đang chờ tôi để biết coi điều đó đã xảy ra như thế nào. Tất nhiên, lúc về nhà tôi vui vẻ. Tôi chưa từng được thanh tịnh như vậy. Tôi cảm tạ Thượng Đế về việc Ngài đã ban ân huệ cho tôi. Nó có thật! Đêm kế tiếp và trong khoảng một tháng, đôi khi tôi có cảm tưởng rõ rệt như trôi nổi trong một nguồn sáng có màu trắng của bông lót nệm, có những đêm êm dịu trong đó tôi ngủ ít. Tất nhiên là vậy, tôi kể những kinh nghiệm của mình cho Renée, bà vợ tôi, bà ấy hỏi tôi: 'Thế nào, kể lại đi, điều đó xảy ra như thế nào?' Điều này không thể tránh được, bà ấy cũng nói: 'Cha này khùng rồi,' và không mảy may tin một chút gì những điều tôi kể lại về cái latihan [sự tập luyện] tâm linh Subud đầu tiên của tôi.

Một buổi chiều, trong khi tôi lên giường ngủ, Renée đã khiến tôi ngạc nhiên khi nói: 'Thôi được, em cũng muốn nhận được sự giao tiếp đó, cái Quyền Lực của Thượng Đế Toàn Năng.' Sở dĩ vậy vì bà ấy muốn tự mình biết được điều đó thực sự đến từ Thượng Đế hay không, và không do tưởng tượng của tôi hay do một pháp thuật nào đó. Năm 1959, chúng tôi không biết là người chồng không được truyền sự giao tiếp đó cho vợ mình [ngay cả khi đọc được điều đó trong tác phẩm của ông Bennett, tôi cũng đã quên]. Thế cho nên, không chút đợi chờ, tôi liền nói bà ấy: 'Vậy thì em hãy đứng đó, đừng suy nghĩ tới bất cứ gì, hãy giao phó mình cho Quyền Lực của Thượng Đế.' Và latihan bắt đầu. Vậy, tôi tập latihan mà không tìm cách ảnh hưởng tới bà ấy, vì tôi biết quả thực ta phải trống rỗng không có một chút ước muốn, một chút tình cảm, không có chút gì là những ngoại xuất của trí tuệ. Latihan kéo dài nửa tiếng đồng hồ, rồi chúng tôi ngồi xuống; tới phiên tôi nói với bà ấy: 'Anh có khùng không?' Bình luận về latihan mình, Renée nói với tôi: 'Lúc đầu latihan, em không nhận được gì hết, nghĩa là không có bất cứ biểu hiện nào được cảm thấy, và em tự nói với mình: chẳng có gì hết! Nhưng ngay khi nói điều đó, phải nói là có một lúc quy thuận; trời ơi, em cảm thấy một sự rung động trong cánh tay, cánh tay đó đưa lên từ phía bên cạnh mà không có sự tham dự của ý chí; thế nên, dùng ý chí, em mãnh liệt hạ cánh tay xuống; nhưng nó lại đưa lên, và ngay khi đó, latihan chấm dứt. Nhưng, bởi luôn luôn có cái 'nhưng', trong đêm kế tiếp, Renée thấy rất đau cánh tay, cái cánh tay đưa lên trong latihan mà bà đã dùng sức mạnh để hạ nó xuống. Do đó chúng ta phải để cho những cử động đến trong latihan được tự nhiên. Một vài ngày sau, chúng tôi cả hai tập một lần nữa cái latihan thứ nhì của mình [tuy chỉ có 'một' trong lúc phụng thờ Thượng Đế] và lần này không còn nghi ngờ tôi nữa [vì ban đầu bà nghĩ là tôi muốn thôi miên bà, hay làm điều gì như vậy]. Renée quy thuận một cách hoàn toàn tin cậy và chân thành, và lạ thay, bà vợ tôi, một người kể từ thuở niên thiếu đã được nuôi nấng trong một môi trường vô thần, cảm thấy trong cái latihan đó hai cánh tay mình đưa lên, hai bàn tay chắp vào nhau, trong một tư thế tự hạ mình trước Thượng Đế. Latihan chấm dứt, tôi nói với bà: 'Em có cảm thấy điều gì không?' Bà nói: 'Em nghĩ có một điều gì chúng ta nhận được mà không lệ thuộc ý chí.' Vui mừng vì biến cố đó, tôi viết thư cho người anh em ở Paris đã dẫn mình vào Subud, báo cho anh hay cái tin vui: bà vợ tôi đã được dẫn tới quyền năng của Thượng Đế trong Subud; tôi mời anh đến Montigny-Lencoup. Anh đến tuần kế tiếp, không phải để chúc mừng tôi, mà để nói với tôi là tôi đã phạm một lỗi lầm lớn: 'Ta không được khai mở vợ mình.' Anh cho tôi địa chỉ của một người chị em ở Paris, và Renée đến đó để được 'chính thức' khai mở theo những nguyên tắc của Subud. Kể từ lúc đó, chúng tôi không bao giờ tập chung latihan.

Chúng tôi tập latihan hai lần mỗi tuần, và mỗi lần một tháng tôi lên Paris đến phòng Mendel, nơi chúng tôi được 4 hay 5 người. Phải nói là tôi đã phạm một lỗi lầm khác, đó là việc khai mở cho anh bạn trẻ Pierre, hồi đó anh được 18 và 19 tuổi. Pierre là một trong những học sinh của tôi về môn thể dục và nhu đạo. Những suy tư của tôi đã khiến anh thích thú, tôi dẫn nhập anh vào môn hatha-yoga và việc tìm kiếm sự im lặng của nội tâm. Sau đó, khi trở về Paris, tôi kể cho anh nghe cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình với Bapak, và Pierre đã nói với tôi : 'Đó đúng là điều tôi đang kiếm.' Anh đã được 'khai mở' trong khi tôi chưa là phụ tá, vì tôi được biết là chỉ có phụ tá mới có trách nhiệm là người làm chứng cho việc truyền thụ sự giao tiếp với Quyền Lực của Thượng Đế trong Subud, theo những chỉ dẫn của Bapak. Những phụ tá ở Paris được cho hay về điều đó, đã đến gặp chúng tôi và hợp thức hóa cái tình trạng đó, và Pierre có thể tiếp tục tập latihan.

Tháng 7 năm 1960 tôi dự ở Paris cuộc họp đầu tiên của Subud Pháp, với sự hiện diện của Sjafrudin, một trong những phụ tá Nam Dương đầu tiên của Bapak, nhân dịp đó tôi xin được đàm thoại với ông, vì trong 8 tháng vào Subud, chúng tôi đã có nhiều chứng nghiệm phi thường, Renée và tôi. Trong ít nhất hai tiếng đồng hồ, Sjafrudin đã giải đáp một cách uyên thâm tất cả những câu hỏi mà latihan đã khơi dậy trong lòng chúng tôi. Thuật lại những điều đó nơi đây là vô ích, vì hiện nay chúng ta có những bài nói chuyện của Bapak và ngay cả một tác phẩm: 'Những giải đáp của Bapak cho hội viên' mà ta chỉ cần đọc. Nhờ vậy, nhiều lầm lỗi và vấn đề có thể tránh được đối với những người đã vào Subud và chịu khó bỏ thời gian đọc lại cuốn đó thường xuyên.

________________

(1) Upanishad: thánh thư của đạo Hindu.

(2) Nguyên văn: Ô douce folie...qui après 27 ans demeure! Có lẽ đây là câu thơ của một thi sĩ hay một lời ca của một bài hát. Latihan đầu tiên của tôi với Bapak và 50 người anh em khác.