Chứng nghiệm về tổ tiên

Minh Thần dịch từ Subud Voice

 
 

Rohana Darlington…

Một cuốn sách mang đầu đề Doing and Daring
Mashud và tôi là thành viên nhóm Subud Manchester. Khi trụ sở Subud của nhóm bị những kẻ cố ý gây hỏa hoạn phá phách, chúng tôi nhận thấy mình cần phải di chuyển tới một nơi nào khác. Vì là hội trưởng, nên Mashud phải đi tìm một căn hộ mới: bán căn cũ và mua một căn mới đương nhiên không là chuyện dễ làm.

Trong một lúc nào đó, tôi cảm thấy chuyện đó là bất khả thi, bởi lúc đó là cao điểm của sự mua bán bất động sản: mỗi ngày chúng tôi phải đối phó với áp lực của những con buôn bất động sản huênh hoang tìm cách mua căn hộ cũ với giá rẻ, hay quyết chí làm cho chúng tôi chiều theo đòi hỏi của họ là mua căn hộ mới trước khi bán cho những người khác. Bởi Subud là một tổ chức từ thiện, nên chúng tôi phải làm theo những giới hạn của luật lệ, và những cuộc điều đình thường kéo dài và bị trì hoãn, khiến cho người mua và kẻ bán đều bực bội.

Mệt mỏi vì tất cả những chuyện đó, tôi đi tập latihan, và sau một lúc không khí chợt như được tinh lọc: tôi cảm thấy có một phụ nữ không thân xác trước mặt mình. Bà có vẻ như xúc động vì được phép đến trong latihan, để trao cho tôi một thông điệp. Tôi không biết bà là ai, nhưng khi hoàn toàn trầm tĩnh, tôi nhận biết được tại sao bà đến.

Bà nói bà là bà nội tôi, bà đến để đem cho tôi “những lời lẽ khuyến khích.” Bà lưu lại không bao lâu, nhưng sau khi bà đi mất, tôi cảm thấy tâm hồn mình được thăng cao. Trong cuộc đời thế gian của mình, tôi hầu như không biết gì về bà nội, vì thời thơ ấu mình tôi ở nước ngoài, nhưng bà đã mất trước khi tôi về Anh ở, và tôi còn hiểu được rằng bà là người vợ của ông nội, nhà truyền giáo Tin Lành.

Cùng với các đồng đạo, hình như họ đã hiến hết đời mình cho việc xây cất một ngôi giáo đường Tin Lành tại Leicester từ con số không. Ngôi giáo đường đó được xây cất theo hình thù một chiếc đèn lồng tượng trưng cho Ánh Sáng Đức Ki Tô trên thế gian. Sau khi tôi có cái chứng nghiệm đó, tôi và Mashud đi coi ngôi giáo đường. Những hồ sơ của giáo đường đã ghi chép lại những chi tiết về ông bà tôi; chúng tôi tìm thấy một cuốn sách với đầu đề Doing and Daring (dám làm) mô tả như thế nào họ đã xây cất giáo đường. Nhờ sách đó, chúng tôi biết thái độ mình phải ra sao khi mua cho Subud một trụ sở mới tại Manchester. Hiện nay chung quanh giáo đường là những chùa Hồi và đền thờ, nhưng cộng đoàn Thiên Chúa giáo vẫn còn đông người tích cực hoạt động.

Cái chứng nghiệm đó làm tôi nhận thức được những gì chúng ta thừa hưởng của tổ tiên là sự thật: những tính tốt cũng như không mấy tốt! Tôi tin rằng những nỗ lực của ông bà nội trong cuộc sống họ trên trần gian, đã truyền lại một vài khía cạnh cho tôi, khiến tôi kiên cường và tin tưởng giúp cho sự tiến bộ của Subud bằng cách đi tìm một trụ sở mới, nếu được Thượng Đế cho phép.

Cuối cùng chúng tôi tìm được một căn hộ thích hợp làm trụ sở cho nhóm Subud Manchester; chung quanh đó cũng có những giáo đường của những tôn giáo khác. Có một giáo đường đạo Do Thái ngay bên cạnh; bên đường còn có những giáo đường của giáo Hội Anh, của phái Baptist và phái Seven Day Adventist. Chúng tôi còn cho thuê những căn phòng của trụ sở cho những nhóm Thiên Chúa giáo khác không theo truyền thống: Pentecosta, Assembly of God worshippers và Lion of Judah. Tiền thu nhập chúng tôi dùng cho lợi ích của cộng đồng mình.

Kết quả
Kết quả những chứng nghiệm của latihan về tổ tiên là tôi quan tâm tới việc tìm hiểu gia phả mình, trong đó tôi nhận thấy thường thường những nữ nhân lớn tuổi trong họ hàng là những người “duy trì dòng họ.” Tôi lập nên một thư khố để cho các con cháu có thể hiểu biết nhiều hơn về di sản của mình. Điều lí thú là hiện nay có thể tìm hiểu nhiều về họ hàng nhờ những tư liệu trên Internet: những tính tốt cũng như tiêu cực của tổ tiên có thể truyền lại cho con cháu. Chẳng hạn, nghề nghiệp của tôi là vẽ kiểu mẫu, và khi tra cứu các tư liệu, tôi nhận thấy có nhiều tổ tiên phái nữ làm nghề thợ may.

Tuy nhiên, có những chứng nghiệm về tổ tiên trong đó không dễ gì có thể truy nguyên và nối kết. Cách đây vài năm tôi có những chứng nghiệm về đạo Do Thái trong latihan. Tôi được dạy cho cách cầu nguyện cho hòa bình với vong hồn những phụ nữ Do Thái; hồi đó tôi nghĩ những chứng nghiệm đó là thuộc phần giáo hóa tâm linh để giúp mình hiểu được tất cả các tôn giáo khác mà không thành một kẻ cố chấp, như nhiều người trong họ hàng mình.

Những bà con gốc Áo quả quyết với tôi là hoàn toàn không có dòng máu Do Thái trong gia đình. Họ nói mình biết được là vì dưới chế độ Đức Quốc Xã mọi người tại Vienna phải chứng minh mình không mang dòng máu Do Thái, bằng cách tìm kiếm trong gia phả tối thiểu từ ba thế hệ trước đó. Nếu không thì họ sẽ bị bắt giữ, và có thể bị đẩy vào một trại tập trung. Nhưng sau đó trong latihan tôi lại có thêm những chứng nghiệm về những người Do Thái, đặc biệt những người Do Thái thuộc phái Hasidi của Do Thái giáo. Bởi không biết chút gì về họ, nên tôi tra khảo trong Internet và nhận thấy trong thế kỉ 18 tới 19 có nhiều người Do Thái cư trú ở Vienna, trong đó có một số người theo phái Hasidi, tuy phần đông cư trú tại Hungary. Mẹ tôi có lần cho hay người cha gốc Áo của bà đã nói với bà về việc ông có những tổ tiên nhiều đời trước đó ở Hungary lúc còn thuộc đế quốc Áo-Hung.

Trong một latihan tập chung với mọi người trong năm 2011, tôi chợt ý thức được có một nhóm người vây quanh mình. Tôi hoàn toàn yên tịnh, khi một người trong họ nói thầm vào tai tôi: “Còn nhớ tới Hasidim? Ngươi cũng là dòng dõi họ.” Trong những latihan sau đó, tôi lại được làm cho cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và cho những người Do Thái. Đương nhiền là tôi không hoàn toàn hiểu được những chứng nghiệm đó, nhưng tin rằng có dòng máu Do Thái trong số các tổ tiên mình, không như điều được chứng tỏ từ các tư liệu: có thể là đã có một cuộc giao hợp bí mật hay ngoài giá thú mà tôi phải nhận biết. Tôi không thấy được điều đó như thế nào có thể chứng minh, nên chỉ việc chấp nhận những chứng nghiệm đó.

Có lần, sau khi tập latihan với nhiều người tại một Hội Nghị Subud, tôi chợt ý thức được có một nhóm vong hồn ăn mặc đồ màu đen. Tôi cảm thấy họ là những người thuộc phái Thanh giáo (Puritans) và là họ hàng thuộc một nhánh xa xôi của tổ tiên mình. Họ đến bên tôi nói là họ bị lôi cuốn bởi cái ánh sáng tâm linh phát ra từ cái latihan của hơn 100 phụ nữ. Tuy nhiên, nhân vật lãnh đạo họ tỏ vẻ nghi ngờ. Ông hỏi tôi điều đó có liên quan gì tới Chúa Giê-Su. Trong latihan tôi được khiến cho chào đón họ gia nhập nhóm người đang phụng thờ “Nhân danh Chúa Giê-Su, Đấng Cứu Thế.” Hình như đó là điều phải nói, bởi sau đó tôi cảm thấy mọi người trong họ đều quy thuận quyền năng của latihan, hay Chúa Thánh Thần, theo sự cảm nhận của họ. Tôi ngạc nhiên thấy có cả đàn ông lẫn đàn bà trong nhóm họ, tuy đó là cái latihan cho phái nữ. Nhưng hình như họ được phép tập chung với nhau.

Trong một dịp khác, khi về nhà ngay sau lúc dự xong một Hội Nghị Latihan, tôi cảm thấy có một nhóm người khác là những tổ tiên mình đến hỏi tôi latihan là gì. Tôi được khiến cho giải thích cho họ là chúng tôi phụng thờ Thượng Đế, rồi được khiến cho nằm trên thảm nhà. Tôi cảm thấy những bước chân họ trên lưng mình, như mình là một cây cầu. Thế rồi họ đi mất vào một cõi giới khác.

Những chứng nghiệm đó cho thấy là như thế nào latihan tác động tới gia tộc mình, khiến tôi hiểu được rõ hơn cách thường được hiểu. Bapak giải thích ban đầu latihan mình là cho chính mình, nhưng sau đó khi chúng ta tiến bộ, latihan có thể tác động tới các tổ tiên và thậm chí còn tới cả cái cộng đồng của mình và xã hội. Cuối cùng thì nó có thể tác động tới “Toàn thể Nhân loại.”

Tại Hội Nghị Subud Anh năm 2011, tôi dự một phiên họp Kedjiwaan mà đề tài là câu hỏi: “Có những năng khiếu nào của tâm hồn mà bạn cần nhận biết được nhưng hiện nay chưa được biều lộ?” Trong buổi trắc nghiệm đó, tôi được chỉ cho thấy là mình có năng khiếu hoạt động với những người đã chết và những người không ý thức được mình đã chết, kể cả những người còn sống trên cái thế gian này, nhưng trong tình trạng hôn mê không dễ tiếp xúc. Điều đó xác nhận những chứng nghiệm tôi đã có. Trong những latihan vừa qua, tôi đôi khi cảm thấy mình là thành phần của một đội y tế không thể xác, và nhiệm vụ tôi là ngồi thức đêm bên bệnh nhân, để khắc sâu vào tâm hồn họ việc tới lúc họ phải thức tỉnh. Theo trắc nghiệm thì hình như tôi được yêu cầu thành một kẻ làm việc bán thời gian là dẫn đường cho người chết!

Trong công việc trước lúc về hưu vừa rồi, tôi là một nhân viên trị liệu cho những bệnh nhân bị hôn mê của một bệnh viện phục hồi. Có một trường hợp trong đó một phụ nữ tìm cách tự tử nhưng đã không thành công và bị hôn mê nặng. Tôi cảm thấy mình phải sơn vẽ những bích hoa khắp tường trong phòng cô, trong trường hợp cô tỉnh dậy. Như vậy cũng là để cho các thân nhân cô hay là ban y tế đã làm hết sức mình để giúp cô. Tôi làm những bích họa của một khu vườn Italy, sơn vẽ tường khiến cô có cảm tưởng chung quanh mình có hoa quả, trên giường có ánh mặt trời, với cảnh đồi núi và ven hồ. Tôi thường chơi nhạc cho cô nghe, trong khi sơn vẽ những bức tường. Tuy cuối cùng cô đã chết nhưng căn phòng đó còn được dùng cho những bênh nhận chán đời trở nên phấn khởi, vì họ bị lây nhiễm nặng và phải bị cô lập. Tôi cảm thấy công việc mình trên cái thế gian này là giúp những bệnh nhân đã chết trong tình trạng không sáng suốt, và mong rằng như vậy latihan mình có thể đụng chạm vào một cộng đồng rộng lớn hơn, dù là trên cái thế giới này hay những thế giới không nhìn thấy được.

 
     
 
  © 2019 Góc Nhỏ