Hành trình tâm linh

Abdool Lateff Ismail
   Minh Thần
   02.2014 - dịch từ Subud Voice May 2005

 
   
   

Cuộc hành trình 1000 lẻ một đêm của tôi trong Subud

Ban đầu với tôi lối khai tâm của latihan kedjiwaan của Subud không khác với lối của dòng tu Nakshbandi. Trong một tới hai năm đầu sau khi được khai mở, tôi không nghiệm được gì hết, ngoại trừ một tình trạng an bình sau mỗi latihan.

Tháng chạp năm 1963 theo Ý Muốn của Allah, tôi có một cuộc hành trình tới nhiều nơi ở Trung Đông và Ấn Độ, mục tiêu chủ yếu của tôi là hành hương tại Mecca và thăm viếng sư phụ mình là Bapak Muhammed Subuh.

Sau cái Haj (hành hương) tôi đến Wisma Subud ở Cilandak ngày 22 tháng 6 năm 1964, và đó cũng đúng là ngày mừng sinh nhật Bapak. Đó là lúc tôi có những ấn tượng đầu tiên về Bapak, trong phòng tập latihan nhỏ bé, vì phòng tập mới thì chưa có. Tôi cư ngụ tại căn nhà tiếp khách, và hồi đó thì Bapak vẫn còn ở đó, trên lầu hai, vì tư gia của Bapak chỉ mới bắt đầu được xây cất.

Thật không thể ngờ được, sự hiếu khách và quan tâm cho chúng tôi của Ibu Rochanawati (con gái Ibu Sumari) - bà đã tận tình chăm sóc chúng tôi. Mỗi tối Bapak đều xuống dưới nhà để trò chuyện với bất cứ ai đang có mặt. Hồi đó vì còn mới vào nghề, tôi đã hỏi Bapak nhiều, rất nhiều điều - những điều thậm chí cho tới nay tôi không còn nhớ được gì, kể cả những giải đáp của Bapak.

Vì Bapak đang chuẩn bị cho chuyến đi thế giới, nên tôi chỉ ở Cilandak được hai tuần, cho tới khi Bapak ra đi. Đó là cuộc viếng thăm Nam Dương đầu tiên của tôi, và tôi thâm sâu tin tưởng rằng latihan sẽ cho mình cái cảm xúc an bình mà mình tìm trong cuộc hành hương, và đã nghiệm thấy được tại Wisma Subud.

Trở về Johannesburg tôi tiếp tục chuyên cần tập latihan - tôi muốn thử nghiệm latihan trong khoảng 5 năm, để coi xem thực sự có những kết quả đáng kể nào không. Trong năm thứ nhất và thứ hai, tôi chẳng cảm thấy gì hết, hay có bất cứ cử động nào, và điều này khiến tôi hơi thất vọng. Tuy nhiên tôi cứ kiên trì, và nhớ lại điều mình tự hứa hẹn là phải thử trong 5 năm...

Con đường mình theo có đúng không?

Tôi bắt đầu thấy bối rối: con đường mình theo có đúng hay không, hay trái ngược với lối tu tập của tôn giáo và theo phái sufi của mình? Tuy thế, vì sự cam kết với chính mình, tôi cứ kiên trì. Trong lúc đó, một đêm nọ trong một xuất latihan tại Johannesburg, chợt nhiên tất cả đều trở nên ồn ào quá sức tưởng tượng, và tôi tự nhiên bắt đầu cử động, la hét vân vân. Từ trong lòng mình, lối tu tập của dòng Nakshbandi chợt khởi động, mà không có bất cứ sự trợ lực nào của tâm trí. Việc đó thật kì lạ nhưng lại có thật, và là bằng chứng cho thực tại của latihan.

Khi tiếp tục tập latihan, tôi chợt mong muốn trai giới mỗi ngày cho một năm, để giúp cho quá trình trở nên nhanh chóng. Rút cuộc tôi không cảm thấy có sự khác biệt và thấy hơi thất vọng. Chẳng bao lâu sau cái prihatin đó, tôi lại có thể một lần nữa đi Cilandak.

Cũng vào thời đó Bapak đến thăm Nam Phi, và tôi là thủ quỹ của hội có nhiệm vụ về tài chánh cho cuộc viếng thăm của Bapak. Tại một văn phòng ở Wilgerspruit, nơi cư ngụ của tất cả các khách đến thăm, trong lúc tôi đang làm việc, thì cánh cửa chợt mở ra, và Bapak bước vào.

Nhận xét đầu tiên của Bapak với tôi là “Lateef, khi nào bạn bắt đầu làm kinh doanh?”

Điều đó là một cú sốc với tôi, vì mình có thói quen tránh xa cái thế gian này, để dồn tất cả nỗ lực vào cuộc sống thuộc kiếp sau. Tuy nhiên, vì Bapak là sư phụ mình, nên tôi chấp nhận chuyện đó một cách hơi dè dặt. Nhưng trong một xuất latihan ở Wilgerspruit, Bapak chợt đứng trước mặt tôi, và tôi chỉ việc phục tòng. Một sức mạnh và sự rung động rất mạnh chạy qua toàn bộ hệ thống của nội tâm mình, và tôi tin đó đích thực là sự khai mở của mình.

Năm 1967 tôi chỉ có đủ tài chánh để có thể một mình đến Cilandak trong hai tháng mà không mang theo gia đình. Khi đến đó, tôi có thể cảm thấy một không khí khác biệt; tư gia của Bapak đã xây xong, và Bapak cùng gia đình có thể ở đó.

Có sự hiện diện của nhiều người nước ngoài, và Cilandak thì có đầy sinh hoạt. Trong thời gian đó cũng có điều này xảy ra là vì sự tiến bộ của Nam Dương Mas Sudarto nhận được chỉ thị của Bapak là làm prihatin trong một ngàn đêm mà không ngủ. Tôi lập tức rất thích Mas Sudarto, vì ông dành nhiều cảm tình cho bất cứ ai. Mỗi đêm tôi đều đi theo ông, như một môn sinh háo hức muốn biết được nhiều khía cạnh của tâm linh.

Kết quả tức khắc của điều khiến tôi hoàn toàn hầu như không ngủ mà không phải cố gắng, là có một quá trình liên tục latihan xảy ra ngày và đêm.

Trong thời gian đó tôi có nhiều, rất nhiều câu hỏi, và Mas Sudarto vui lòng giải đáp, không chỉ giải thích thôi mà còn luôn trắc nghiệm để kiểm chứng thực tại. Điều đó với tôi quý báu như vàng bạc, và tôi còn nhớ là đôi khi mình không hỏi gì nữa, thì Mas Sudarto thường nói “sao chẳng hỏi gì hết?” và tôi lại hỏi hết điều này tới điều nọ.

Hầu như mỗi đêm chúng tôi đều vào phòng tập để tập latihan và làm trắc nghiệm. Trong những đêm đó, ông làm trắc nghiệm với tôi, và dần dần tập cho tôi cách trắc nghiệm và ý thức kết quả của trắc nghiệm và việc do đâu mình nhận được, do dục vọng và ý chí, hay do việc qua jiwa mình không bị ảnh hưởng cúa chính mình.

Trong một đêm đặc biệt nọ, tôi nhận thấy Mas Sudarto có trạng thái lạ thường là cặp mắt hơi đảo ngược, và trong lúc đó tôi có một latihan rất mạnh. Sau đó Mas Sudarto nhận xét là nhờ những cầu nguyện của tổ tiên mà tôi được Allah dẫn vào Subud.

Thiên thần

Một đêm đặc biệt nọ tại phòng tập latihan, trong lúc đang tập tôi được làm cho nằm xuống và có một chứng nghiệm khác. Trạng thái latihan của tôi trở nên thâm sâu, và điều đó tiếp tục càng lúc càng thâm sâu hơn khoảng bốn lần, như mình đang du hành tới một khuôn khổ khác. Tới giai đoạn cuối cùng, trong khi hoàn toàn tỉnh táo, tôi trông thấy một thiên thần (không là nam cũng như nữ) trước mặt mình, và trong một trạng thái cầu nguyện thâm sâu tôi nói Allah, Allah. Rồi tôi trở về cái thế gian này, trong một hình thể y như trước, nhưng là ngược lại. Khi xong latihan, tôi hiểu được môt cách hoàn toàn rõ rệt thực tại sự hiện hữu và hình thể của một thiên thần, như điều được truyền dạy trong tôn giáo mình. Một trong những thắc mắc của mình đã được giải đáp một cách thật rõ rệt, khiến tôi không còn nghi ngờ gì được nữa.

Khoảng 6 tuần đã trôi qua, như vậy với tôi là quá nhanh, và tôi phải trở về Nam Phi. Hồi đó tôi đang ở Johannesburg, và có một cuộc sống riêng tư trong một không gian rộng lớn. Tuy lạ lùng nhưng lại là sự thật, cái quá trình bắt đầu ở Cilandak vẫn tiếp tục, và tôi thức mỗi đêm trong một trạng thái latihan thâm sâu, chỉ thỉnh thoảng chớp mắt đi một tí.

Trong thời gian đó tôi làm việc kế toán cho một loạt những hãng bán đồ lẻ. Không ngủ ban đêm nhưng lại có trách nhiệm làm việc để nuôi gia đình là điều không hợp lí chút nào. Tuy nhiên, trong những giờ phút làm việc, tôi thực hiện những bổn phận thông thường của mình mà không ai nhận thấy có bất cứ gì là kì quái.

Mỗi đêm tôi thường ngồi một mình trong một trạng thái latihan thâm sâu, và hiển nhiên không thể ngủ. Tôi để cho cái quá trình đó được tự do diễn biến. Tất cả những gì tôi đã đọc và học được dần dà bị xoá đi khỏi kí ức mình, khiến tôi ngay cả quên đi tụng niệm Al Fatihah. Tôi không thể thực hiện sự cầu kinh hằng ngày theo thói tục của mình, nhưng điều lạ lùng là việc đó không khiến tôi thấy khó chịu.

Tất cả những sự nghi ngờ và lo ngại của tôi về những vấn đề tôn giáo từng điều một được khiến cho tôi thấy trong hình thức của một chứng nghiệm trong khi tôi vẫn còn thức, cho tới khi mình không còn nghi ngờ gì nữa.

Thật vậy, ngay cả việc nghiệm được cại chết sau khi chết trên thế gian này và tình trạng chuộc tội. Bây giờ thì tất cả những điều tôi được dạy bảo trong tôn giáo không chỉ là tưởng tượng, tôi tiếp nhận được cái nội dung của nó là sự thật. Mỗi đêm là một chứng nghiệm tươi mới về tất cả những gì tôi đã được dạy bảo, ngoài đó còn là những sự thật khiến mình tin tưởng.

Trong lúc nhịn Ramadhan trong cái quá trình đó, tôi dự những buổi thức khuya tại Nhóm Johannesburg, và khi về nhà tôi phải đi ngang qua nghĩa trang Bloemfontein. Khi đi ngang qua nghĩa trang, tôi có một ý nghĩ “Không biết những gì đang xảy ra nơi đây trong tất cả những nấm mồ này.”

Về tới nhà, theo thói quen tôi ngồi yên lặng và chợt nhiên bị đem tới nghĩa trang, và chung quanh mình có những linh hồn tại nghĩa trang. Mỗi kẻ đều làm y hệt những gì họ đã làm trong cuộc sống trước đây của họ, mà không biết mình đi đâu hay ý thức được chút gì là mình đã qua đời. Chợt nhiên một nhân vật xuất hiện trên nền trời và nói với tôi “chúng ta hãy đi khỏi nơi đây - đây không là nơi chốn cho ngươi,” và chúng tôi bay đi nơi khác. Bây giờ thì tôi biết là chúng tôi đi tới một hướng y như nhau, từ kiếp sống này tới kiếp sau.

Tôi vẫn còn làm việc ban ngày, và ban đêm cái quá trình của mình tiếp tục kéo dài từ 1967 tới 1970. Tới đoạn cuối của quá trình, tôi mãnh liệt cảm thấy trong lòng là mình muốn trở lại Cilandak. Thế nên, ngày 14 tháng giêng năm 1970 với một phần gia đình mình tôi đến Cilandak với ý định ở lại đó trong một thời kì dài lâu. Tôi phải bán một vài bất động sản của mình để có thể tài trợ cho chuyến đi đó.

Tại Cilandak chúng tôi thuê một căn phòng nhỏ, và tự làm lấy những chuyện lặt vặt. Vì con cái vẫn còn nhỏ, chúng tôi thuê một người hầu gái để chăm sóc chúng. Quá trình của tôi tiếp diễn thêm nhiều tháng, và luôn được sự trợ giúp của Mas Sudarto. Trong thời kì đó, phòng tập latihan rộng lớn đang được xây cất, và tôi còn nhớ là trong buổi lễ khánh thành đặt đầu một con bò vào viên đá đặt nền, Bapak trượt chân và gần bị té ngã.

Tại Cilandak, một lần nữa trong phòng tập latihan nhỏ bé tôi có những chứng nghiệm tương tự biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, và nghiệm được thực tại của kiếp sau. Đó là một thời kì đều đều tuyệt thú, nhưng chẳng bao lâu đã đến lúc chúng tôi phải ra đi, vì Bapak có ý định du hành nước ngoài.

Tôi xin phép được đến thăm Bapak với gia đình mình trước khi về nước. Bapak có mặt tại tư gia để đón chúng tôi, và ước ao của tôi chỉ là xin Bapak ban phước cho mình. Khi chúng tôi bước vào phòng, Bapak ôm hôn theo truyền thống Hồi giáo (thông thường tôi không theo cái thói tục) và nói với tôi “Lateef, bạn đừng lo, ân huệ của Allah luôn bên cạnh bạn.” Đó là cái phước đức lớn nhất tôi chưa từng có mà không yêu cầu. Chuyện ngàn lẻ một đêm của tôi đến đó là hết.

Sức mạnh của Đức Ki Tô

Trong mùa Ramadhan 1972, khi tôi còn ở Amanacer, hầu như mọi người đều trai giới, và điều đó khiến tôi rất thích. Khi nền nhà của đại sảnh vừa đặt, ban đêm chúng tôi đều thức khuya cho tới 4 giờ sáng trong một cơ cấu tạm thời bằng gỗ gọi là camboochie.

Một trong những đêm đó tôi có một chứng nghiệm phi thường, trong đó tôi hoàn toàn được sức mạnh của Đức Ki Tô bao bọc, cái Roh Ilofi, và tôi ý thức được nội dung của Nabi Esa, Chúa Giê Xu, trong lòng mình. Tôi hiểu được như thế nào, khi có cái Sức Mạnh đó bên cạnh, Đức Ki Tô đã có cái khả năng chữa bệnh cho thiên hạ và thực hiện được những sự mầu nhiệm, vì đã hành động theo đó mình là con đường truyền dẫn cho Ý Muốn của Allah.

Trong lòng mình tôi chợt hiểu cách nhận biết được những cấp độ khác nhau bên trong bản ngã mình - vật chất, thực vật, thú vật và rohani, và khi cần thiết thì cũng hiểu được những cấp độ đó nơi bất cứ ai.

Ngoài sự làm việc cho Amanacer, tôi vẫn còn đi đây đó, bất cứ lúc nào cần phải đi thăm những nhóm Subud. Có lần tôi đã đến Guayaquil, một thành phố ở Ecuador, để thăm viếng nhóm Subud tại đó. Tôi ở nhà của Andres, người anh của Hernando, nơi được sắp xếp có một xuất latihan lúc buổi tối tôi đến. Trước đó, phái nữ đã hỏi tôi nhiều, rất nhiều điều. Nhưng tôi cảm thấy tốt hơn là đợi cho tập xong latihan thì mới trả lời.

Theo những gì nhận được lúc ban đầu của cái latihan đó, tôi thấy xuất hiện một phi thuyền mà mọi người, quả thực là mọi người, bước lên phi thuyền đó. Khi bắt đầu chuyển động, nó rất giống một chiếc máy bay đang cất cánh, nhưng là một chiếc bay vào không gian sâu thẳm. Tôi có thể trông thấy đô thị, núi non, và tất cả đều càng lúc càng trở nên nhỏ bé lúc chúng tôi bay nhanh và cao hơn.

Sau một khoảng thời gian, chúng tôi đến một đô thị mà tôi hiểu là ở nơi nào đó trong không gian, và tôi bước vào một nơi chốn trông như một giáo đường với những chiếc ghế dài. Vì mọi người nơi đó đang đợi chờ tôi làm nhiệm vụ thi hành nghi thức, tôi được hộ tống đến bàn thờ, và một lần nữa sức mạnh của Đức Ki Tô bao bọc toàn thể bản chất mình, và điều kì lạ là tất cả các linh hồn hiện diện đều bước vào thân tôi để rồi đi ra khỏi nơi đó. Điều đó khiến tôi hiểu là trong Thiên Chúa giáo, cách duy nhất linh hồn được cứu vớt là thông qua Đức Ki Tô.

Sau đó, một đám rước cho một buổi lễ hôn nhân bước vào phòng, và tôi ý thức được cô dâu và chú rể. Chính tôi là chú rể, và Maria, em gái của Hernando, là cô dâu. Tôi tự thực hiện lễ hôn nhân cho chính mình, tuy điều này có vẻ lạ lùng.

Sau cái chứng nghiệm đó là cuộc du hành trở về trái đất. Việc này tương tự với một chiếc máy bay đậu xuống, và như vậy chuyện thần tiên đó chấm dứt.

Sau cái latihan đó, những người phái nữ trước đó hỏi nhiều điều, đã không nói lên lời nào, vì nhiều người cảm thấy có điều gì lạ lùng đã xảy ra.

 
 
  © 2014 Góc Nhỏ