Tâm tùy không

Halimah Thùy
   
08.2007

Một tháng trước khi phụ tá quốc tế sang, cả nhóm lo bàn tính phân công. Kỳ này chị Siêu Linh mắc bận phải lo cho bá mẫu đang cơn đau yếu. Thanh niên thì mắc đi làm, mà người trung niên cũng mắc đủ thứ việc không thể bỏ được. Thôi thì ai làm được gì thì cứ làm, mỗi người đỡ đần nhau, nương tựa qua lại trong công việc chung này vậy.

Trước ba tuần, H lo đóng tiền đăng ký giữ phòng trước cho hai IH. Còn vài ngày nữa, anh Hoàn Hương và chị Siêu Linh bàn tính chương trình rồi nhờ H đánh máy, kẻo nghe tai này qua tai kia mà lỡ chuyện.

Sáng dậy, H lò mò đánh máy chương trình hoạt động. 

Chương trình từ 17/7 tới 22/7/2007

Thứ ba 17/7/2007

  • 9.45 g sáng: Ra sân bay đón phụ tá quốc tế [IH]
  • 11 giờ: Đưa IH về viện Pasteur. Nghỉ trưa. Dùng bữa.
  • 5 g 30: Bữa ăn chiều.
  • 6 giờ chiều: Một số hội viên, phụ tá và chủ tịch đến gặp IH.
  • 7.30 g tối: Ra ngoài dùng bữa tối: Phở bò [món ăn Việt Nam]

Thứ tư 18/7/2007

  • 7.30 g sáng: Điểm tâm.
  • 8 g sáng: Vài lời khuyên của IH [trắc nghiệm]
  • 12g trưa: Bữa ăn trưa.
  • 5g30: Bữa ăn chiều.
  • 6g30 chiều: Latihan chung [ trắc nghiệm]
  • 8 g tối: Selamatan.

Thứ năm 19/7/2007

  • 7g30: Điểm tâm.
  • 8g: Chương trình linh động tùy theo IH.
  • 5g30: Bữa chiều.
  • 6g30: Latihan chung.
  • 8g tối: Selamatan nhẹ.

Thứ sáu 20/7/2007: Đi thăm nhóm Subud Biên Hòa.

Thứ bảy 21/7/2007: Đi thăm nhóm Subud Vĩnh Long.

Chủ nhật 22/7/2007

  • 7g30: Điểm tâm.
  • IH đi tham quan thành phố và mua sắm.
  • Ra sân bay tiễn IH.

Thứ ba 17/7/2007

Theo sắp đặt từ trước, anh Hoàn Hương, Pháp, Chí Quyết, Halimah và Rahima Su ra sân bay Tân Sơn Nhất đón phụ tá quốc tế [IH] đến vào lúc 10 giờ 30 và 10giờ 45. Trước khi đi, Rahima Su đánh máy và in ra mấy chữ dán trên tấm giấy cứng: “Chào mừng bà Judy Gibb và ông Mason Cook tới Việt Nam.”

 
   
   

Tới nơi, mới nhớ ra là quên hỏi xem ai tới trước, chị Judy hay anh Mason. Anh Hoàn Hương gọi điện hỏi Hùng Minh số di động của hai IH này nhưng không có. Mà bất tiện một điều là không ai biết mặt hai vị IH này và họ cũng không biết mặt người ra đón. Người ta đông nghẹt như thế đó, làm sao tìm. Anh Hoàn Hương nói không chừng mình đứng chờ đây mà người ta đã tới trước đó gọi xe về nhà nghỉ từ đời kiếp nào. Cũng không biết được. Anh hỏi H có số điện thoại của nhà nghỉ không. Thêm một cái dở nữa là H không đem theo danh thiếp. Bèn áp dụng latihan là cầu nguyện và qui thuận, đồng thời cũng dùng cái trí để lý luận. Anh nào có bầu đoàn thê tử theo kèm thì bỏ qua. Anh nào, chị nào áo quần sang trọng, hoặc kiểu cọ mang vali đùm đề thì chắc chắn là không phải rồi. Nhắm chừng anh nào hoặc chị nào đi một mình, tác phong dung dị, ít mang xách, đảo mắt tìm kiếm thì đến hỏi. Thấy có người ngồi hàng ghế đầu đón được người thân rồi nên họ đứng dậy ra về, H phóng ngay đến thế chỗ, tay cầm bảng tên đưa ra phía trước. Lòng thầm cầu mong cho cả nhóm làm tròn nhiệm vụ này. Ngồi cả gần nửa giờ cũng không thấy đúng đối tượng. Bất chợt thấy đàng kia một bà đứng tuổi đang dáo dác, H tiến ngay lại với bảng ghi tên cầm trên tay: “Xin lỗi, có phải chị là Judy Gibb?” Người phụ nữ này reo lên: “Ô, tuyệt quá, chính tôi là Judy đây.” Đúng là hay không bằng hên, mừng quá, H đưa chị Judy vào chỗ râm mát và giới thiệu với chị từng người. Khoảng mười lăm phút sau, chị Judy nói: “Nhìn kìa, Mason là người đàn ông đội nón trắng đó.” Vậy là nhiệm vụ khả thi. H đưa cho mỗi IH một tờ chương trình sinh hoạt trong những ngày sắp tới. H gọi taxi đưa hai vị về nhà nghỉ. Tặng mỗi vị IH một chậu hoa sống đời thay cho lời chúc sức khỏe. Chị Judy nhiệt tình nên tặng chị chậu hoa sống đời màu đỏ rực. Anh Mason lừng khừng nên tặng chậu hoa sống đời màu hồng nhẹ nhàng. Nghe nói tên hoa là trường thọ [longevity], hai vị IH rất vui thích.

Sau đó, H trở về nhà lấy ly, muỗng, dĩa rồi mua bánh calci, cà phê, trà chanh hòa tan và vài thứ trái cây: thanh long, nhãn xuồng, chôm chôm nhãn, vải thiều, chuối chà bột đem ngay lại phòng chị Judy.

5g30 chiều, đem hai phần bánh cuốn nước mắm lại nhà nghỉ.

Sau đó, H về nhà. Lại có người tới nhờ dịch gấp lá đơn và họ ngồi chờ tại chỗ. Thời gian trôi qua nhanh không ngờ. Nhìn đồng hồ thấy 8g tối, thôi trễ rồi, phóng như bay qua bên nhà nghỉ. Gặp chị Siêu Linh, Hùng Minh, anh Hoàn Hương, Siêu Nhiên, Minh Tuệ đã tới trước, ngồi chờ trong phòng của chị Judy, có cả anh Mason. H nói hôm nay là ngày H gặp những việc bất ngờ nên bê trễ và H rất tiếc, nhưng hai IH lại nói hôm nay đúng thật là một ngày tuyệt vời và họ rất hài lòng.

Giới thiệu cho chị Judy và anh Mason biết từng người. Chị Siêu Linh có nhã ý mời mọi người đi ăn phở Pasteur ở bên kia đường.

Nhưng trước khi đi, mọi người làm mười lăm phút latihan để mừng ngày IH tới. Anh Hoàn Hương và Hùng Minh lên lầu hai làm latihan với anh Mason. Nhóm nữ ở lại làm latihan với chị Judy ngay trong phòng chị ở tầng trệt. Mười lăm phút trôi qua nhanh làm sao! Mọi người đều cho biết có cảm giác rất nhẹ nhàng, thanh thản, ngay cả Rahima Tí Su cũng nói latihan tiếp nhận thật khác thường.

Chị Judy và anh Mason tấm tắc khen món phở bò của Việt Nam.

Sau bữa ăn, chị Judy kể qua trường hợp làm trắc nghiệm để chọn nơi tổ chức hội nghị Subud quốc tế sắp tới. Ngoài bốn nước khác là ứng viên, Tân Tây Lan vượt trội nhờ những ưu thế thuận lợi về nơi tổ chức, thuế má, giá cả ăn ở, tiền di chuyển và cả những người đứng ra đảm nhiệm công việc. Tất cả mọi việc đều diễn tiến trong sự an vui nơi cảm xúc của mỗi người. Tuy vậy, ai cũng đều chờ các IH xem xét kỹ, ba ngày sau mới công bố. Kết quả là Tân Tây Lan chính thức được chọn làm nơi tổ chức HNSQT lần thứ 13. Trước tin này, chị Judy kể chị và một số người đã vui mừng đến nỗi nước mắt ràn rụa.

Sau đó, vài người đưa chị Judy và anh Mason về phòng nghỉ ngơi.

Thứ tư 18/7/2007

7g30 sáng, H đem bún chả giò sang để IH điểm tâm. Không biết hai vị IH có quen món ăn Việt Nam này không, bèn đem cả bánh mì lát với phô mai con bò cười để phòng hờ và một ký măng cụt. Kèm theo cả dừa xiêm để dùng vào giấc trưa trong thời tiết nóng nực.

8g30 sáng, H trở qua nhà nghỉ theo lời hứa với chị Siêu Linh là phải có mặt vào mỗi sáng để xem ai có vấn đề gì cần hỏi IH thì thông dịch. Ngồi suốt đến trưa cùng với chị Judy và anh Mason cũng chẳng thấy ai. Dù vậy, qua câu chuyện, H cũng học hỏi được một số vấn đề.

Chị Judy cho biết phụ tá quốc gia [NH] có bổn phận nối kết, liên lạc với các phụ tá trong khi nghị viên tâm linh [KC] có thêm công việc nữa là liên lạc với bên ngoài. KC là người giải quyết tất cả những vấn đề về tâm linh, phải đem lại sự hòa hợp cho hội đồng quản trị và các phụ tá, phải có khả năng tiếp nhận tình trạng tâm linh của anh chị em và biết rõ sự phát triển của Subud trong nước.

Tự nhiên anh Mason kể lại việc anh làm trắc nghiệm chung với các KC khác trước khi nhận nhiệm vụ làm IH. Lần đầu, anh thấy hiện ảnh bản đồ nước Úc và cảm xúc của anh chỉ bao gồm trong phạm vi xứ sở của anh. Mấy lần khác nữa cũng vẫn là bản đồ nước Úc mà thôi. Lần gần đây nhất thì tiếp nhận của anh lại khác. Anh thấy rõ ngoài bản đồ nước Úc ra, còn một số các nước trong khu vực và anh thực sự có cảm xúc quan tâm đến những nước khác ở chung quanh nước Úc. Và các KC khác cũng tiếp nhận được câu trả lời khi trắc nghiệm rằng Mason có thể đảm nhiệm công việc của IH.

Chị Judy và anh Mason cũng đã hỏi ý kiến H về việc tạo dựng một ngôi nhà cho Subud Việt Nam. H nói H cũng như các anh chị em khác đều rất mong đợi điều đó. Một số anh chị em ở ngoài cũng như ở trong nước đã góp phần vào quỹ dành cho nhà Subud Việt Nam. Nhưng H cũng thành thật mà nói rằng chuyện đó có thể xảy ra trong tương lai, hiện tại điều đó chỉ đơn thuần là mong ước. Có một sự bất an trong cảm xúc của cá nhân H về việc đó. Nhận thì dễ nhưng phải có khả năng giữ gìn. Trong tình trạng hiện nay thì chưa có gì bảo đảm sẽ không có những thay đổi. Tốt nhất là ai đó có khả năng về tài chính và có tài năng tạo dựng nên doanh nghiệp ở Việt Nam, đứng ra xây cất hoặc mua hoặc thuê một cao ốc để làm một địa điểm kinh doanh. Nguồn nhân lực ở Việt Nam không thiếu nhưng kinh nghiệm vẫn còn hạn chế. Người đứng vai chính trong công việc kinh doanh sẽ làm giám đốc để cử quản lý tuyển dụng người làm việc. Người Subud có khả năng được ưu tiên trong khâu tuyển chọn. Và địa điểm này cũng sẽ được dùng làm nhà Subud, một cao ốc có chủ nhân tốt hơn là một ngôi nhà là tài sản chung của một tập thể chưa hợp thức hóa về pháp lý.

Đến trưa, H phải trở về nhà để còn phải lo sắp xếp lần nữa chỗ làm latihan vào buổi chiều.

Kỳ này, mọi thứ đều đặt trước chứ không ai có thể chuẩn bị thức ăn cho bữa selamatan buổi chiều. Chị Siêu Linh gọi người đem bốn lốc chai nước từ hôm qua và đặt xôi vò cho chiều nay. H đặt bánh bao chay và mặn. Tí Su đặt gỏi hộp và chả giò và lo mua trái cây.

6g chiều, anh Hoàn Hương qua nhà nghỉ gọi taxi, đón IH qua chỗ tập, dù từ nhà nghỉ đi bộ qua chỗ tập mất khoảng mười phút là cùng. Đây là biện pháp bảo vệ IH vì mấy hôm trước, anh cho biết Madina mới vừa bị giật mất sợi dây chuyền.

6g30 chiều, anh Mason và cánh nam giới lên trên lầu thượng với hai phòng làm latihan: anh Roosdiana Quảng, anh Hoàn Hương Tống, anh Minh Châu Tấn, anh Budiono Thụy, anh Tùng, anh Siêu Nhân Trọng, Siêu Việt, Hùng Minh, Minh Đạo, anh Tôn Thất Thanh, anh Kim, Chí Quyết, Pháp và Huệ Nhân.

Bên nữ làm latihan với chị Judy ở lầu giữa: tata Mulyani Louise, cô Ba Ngân Jacqueline, bác Sulastri Đào, chị Kim Liên Ngọc Anh, chị Siêu Linh Thông, chị Mariana Sâm Nghiêm, chị Hoàn Toàn Kim Anh, chị Irawati Hoa, chị Susilawati Yến Vỹ, chị Nursih Hương, chị Huyền Khanh, chị Mintarti Điệp, chị Lilani Bình, chị Kalima Thanh, Bửu Linh Thái, Sương Ngọc Hòa, Ngọc Hải, Hồng Hạnh Kim Dung, Madina Lan, Minh Tuệ Vân, Thiết, chị Marini Huệ, chị Arti Hiền, chị Sumarni Ba, chị Harianti Nam, Martini Sang, Sumiati Xuân, Halimah Thùy và Rahima Tí Su.

Sau latihan, chị Judy hướng dẫn làm trắc nghiệm. 

Trước hết là trắc nghiệm từng câu khi nhận câu trả lời là “có” thì cử động ở đầu ra sao, tay ra sao, chân ra sao và thân người ra sao. Khi câu trả lời là “không” thì cử động của từng bộ phận ra sao. Câu hỏi căn bản được nêu lên trắc nghiệm để biết được con người thật của mình là: “Tôi là ai?” và “Tôi ở đâu?”. Kế đó là câu hỏi: “Tôi quan tâm đến bản thân mình như thế nào?” Rồi tới câu hỏi: “Tôi quan tâm đến gia đình, cộng đồng, xã hội, xứ sở, cả thế giới và nhân loại ra sao?” Và sau đó là câu hỏi: “Tôi quan tâm đến bản thân, đến gia đình, cộng đồng, xã hội, xứ sở, cả thế giới và nhân loại khi được latihan hướng dẫn ra sao” Mỗi câu trắc nghiệm đều có câu trả lời khác nhau.

Chị Judy còn kể lại trước đó, khi ở núi lửa ở Surabaya phun nham thạch, Ibu Rahayu có hướng dẫn hội viên ở đó làm trắc nghiệm bao gồm ba câu hỏi.

1-. Trái đất này, hành tinh của chúng ta hiện ra sao.
2-. Tình trạng hiện giờ của cộng đồng nhân loại như thế nào.
3-. Ích lợi của latihan kedjiwaan đối với tình trạng của thế giới.

Chị Judy hỏi các chị em có muốn làm trắc nghiệm này không. Mọi người đồng ý.

Khi làm trắc nghiệm câu số một, đa số như bị sôi sục lên vì sức nóng.
Trắc nghiệm câu số hai, nhiều tiếng gào thét la khóc thảm thương.
Tới câu số ba, tất cả như được giải trừ và không khí êm dịu hẳn.

Và chị Judy nói rằng, qua những trắc nghiệm, chúng ta thấy rõ rằng latihan tâm linh thực sự rất cần thiết để cứu rỗi cho đời sống con người.

Nhiều người trước đó chưa tiếp nhận được đã nói họ cảm thấy latihan mạnh hơn và câu trả lời khi trắc nghiệm rõ ràng hơn.

Khi được hỏi, bác Sulastri đã trả lời rằng cảm thấy cử động rất nhẹ ở bên trong khi trắc nghiệm. Chị Judy nói vậy là có tiếp nhận ở bước đầu, sau này tập làm trắc nghiệm vài lần nữa, sẽ cảm nhận rõ ràng hơn.

Một số người mong sẽ được tiếp tục làm trắc nghiệm vào ngày mai sớm hơn để những người ở xa có rộng thời giờ hơn.

Sau đó, mọi người xuống nhà dưới dự selamatan. Bên nam đã xuống từ lâu. Có lẽ nam giới ít thắc mắc hơn bên nữ.

Có một số người muốn về sớm nên lấy phần thức ăn chứ không ở lại dự selamatan chung với anh chị em. Họ cũng ưu ái lấy phần cho những người trong gia đình họ. Một số anh chị em nói họ thấy có những tiêu cực có thể gây cảm nghĩ không tốt cho người khác khi nhìn vào. Và đáng lẽ phải có một tấm hình tập thể để nêu lên tên từng người theo yêu cầu của IH. Nhưng trong hai buổi latihan chung, nhóm ở Saigon đã không thể có được vì sự phức tạp mà một vài người thiếu ý thức gây ra. Con sâu làm rầu nồi canh.

Thứ năm 19/7/2007

8g sáng: Điểm tâm hôm nay là bánh mì sừng trâu và cơm rượu, thêm một nãi chuối sáp. Sáng nay cũng không thấy ai có thắc mắc cần giải đáp.

9g30, H phải cáo từ để về lo chuẩn bị chỗ cho xuất latihan chiều. Cả hai vị IH nói còn nhiều thức ăn nên không dùng bữa trưa hôm nay.

6g chiều, số người đến có ít hơn hôm qua và mọi thứ cũng đơn giản hơn. Latihan và trắc nghiệm cho cả bên nam và nữ nghe nói cũng tương tự nhau. Trừ trường hợp của vài hội viên. Chí Quyết, một hội viên trẻ tỏ ý lo ngại rằng tu tập có thể cản trở công việc làm trong cuộc sống. Sau khi trắc nghiệm, câu trả lời cho thấy latihan hỗ trợ cho công việc và đời sống được hài hòa hơn.

Bên nam đa số đều muốn làm latihan với IH. Anh Mason đã tế nhị làm latihan ở một phòng và mười phút còn lại, anh đã qua làm latihan với anh em ở phòng bên kia.

Thứ sáu 20/7/2007

Chuẩn bị điểm tâm cho IH lúc 7g30.

Anh chị em có mặt sẵn lúc 8g sáng ở nhà nghỉ để cùng đi Biên Hòa với IH. Bác Sulastri, Sumiati Xuân cẩn thận đến sớm sợ trễ. Cũng như chị Irawati Hoa và chị Susilawati Yến Vỹ, chị Hoàn Toàn Kim Anh, Siêu Nhiên Minh Tâm, Madina Lan, Minh Tuệ Vân, anh Hoàn Hương, Liliani Bình, Halimah và Rahima Su, tất cả đều sẵn sàng.

8g30 xe khởi hành. Tới nhà anh Hartono và chị Salama lúc 9g15.

Ban đầu dự định là sẽ làm latihan lúc 10g, nhưng có một vài người ở Biên Hòa mắc đi làm, không ra sớm được nên mọi người phải chờ tới 11g. Nhóm Biên Hòa, ngoài chị Salama Mỹ Chơn ra, có chị Điệp, Utami Long, Thanh Nhân.

Siêu Việt đi công tác cũng cố gắng ghé lại để làm latihan chung và thông dịch cho bên nam. Karsono Bảo Ân, con trai anh Hartono Phú và chị Salama Mỹ Chơn không dự latihan chung. Anh Hoàn Hương kể lại rằng khi anh Hartono tỏ ý lo ngại rằng Karsono Bảo Ân vì bận rộn công việc nên đã xao lãng latihan. Anh mong muốn Karsono trở lại làm latihan. Anh Mason cho bên nam làm trắc nghiệm hai câu hỏi. Câu thứ nhất: nếu bằng tâm trí, anh Hartono muốn cho Karsono làm latihan thì trắc nghiệm tiếp nhận ra sao. Sự tiếp nhận thật nặng nề. Câu thứ nhì: nếu phó thác nơi Thượng Đế thì ra sao. Tất cả đều tiếp nhận thật thoải mái, dễ chịu, nhẹ nhàng.

Bên nữ, sau latihan là những câu hỏi trắc nghiệm về nội dung của Susila, nội dung của Budhi và nội dung của Dharma. Trước khi tiếp tục hướng dẫn làm trắc nghiệm, chị Judy hỏi ai có thắc mắc gì cần giải đáp không. Chị Utami Long nói anh Budiono Minh, chồng chị mất đã hơn một năm nay nhưng nỗi đau khổ của chị vẫn không nguôi vì thương nhớ. Chị nói có lúc chị gặp tai nạn tưởng chừng như sắp chết nhưng vẫn qua khỏi. Chị Utami muốn hỏi về tình trạng tâm linh của anh Budiono và làm sao giúp chị vượt qua nỗi đau khổ không thể nguôi bớt này. Chị Judy cũng kể lại rằng chính chồng chị đã mất khi đứa con nhỏ nhất chỉ mới được sinh ra có hai tuần. Ba mươi sáu năm rồi mà chị vẫn không quên, và dù cho sau đó, vì hoàn cảnh sống, chị đã tái hôn nhưng chị vẫn còn thương nhớ người chồng cũ, cha của bốn người con của chị hiện giờ.

Tất cả cùng làm trắc nghiệm hai câu hỏi là tình trạng tâm linh của anh Budiono và thái độ của chị Utami.

Với câu hỏi đầu, ngoài vài người không tiếp nhận rõ, hầu hết đều cảm thấy nhẹ nhàng. Chị Judy nói linh hồn anh Budiono đang ở cảnh giới tốt đẹp. Với câu hỏi thứ nhì, chị Judy nói chị Utami nên phó thác tất cả mọi sự trong tay của Thượng Đế. Chị Utami không dằn được cảm xúc. Chị Judy cũng ôm chị Utami mà đôi mắt đỏ hoe. Tất cả mọi người im lặng cảm thông trong sự qui thuận. Dù không thể trắc nghiệm nhiều như dự định, nhưng ai cũng cảm thấy đó là việc cần thiết để có thể làm nguôi ngoai nỗi đau đớn của chị Utami.

Trong bữa ăn trưa, chị Judy hỏi H về SD Việt Nam. H nói rằng SD Việt Nam chỉ đang ở bước đầu tiên, và chưa thể đạt tới mức vĩ mô để có thể tạo nên tiếng tăm cho Subud như các nước đi trước. Chị Judy kể về chị Bella Rosario, một người Đức hoạt động xã hội ở Ấn Độ. Bước đầu chị Bella chỉ tình nguyện hoạt động vì lòng trắc ẩn của một con người trước một con người. Từ việc nuôi dạy một trẻ bị bỏ rơi, chị phát triển dần dần hoạt động từ thiện, tiếng tăm lan dần đi các nơi. Một số hội viên Subud trẻ đến tham dự và giới thiệu hoạt động này cho các hội viên Subud trẻ khác. Những bạn trẻ Subud này đã giới thiệu Subud cho Bella. Bella Rosario trở thành một hội viên Subud. Hoạt động tự phát khiêm nhường lúc ban đầu của chị đã phát triển mạnh. Nhưng sau này, các dự án của Bella được chính quyền bảo hộ và tài trợ, đã gây tiếng vang lớn cho SDI.

Rời nhà anh Hartono và chị Salama, cả nhóm tới thăm nhà chị Utami Long khoảng mười lăm phút. Sau đó, tất cả cùng về Saigon.

Thứ bảy 21/7/2007

Mới 4g sáng mà trời mưa tầm tã. Dù gì 6g cũng phải có mặt ở nhà nghỉ Pasteur để 6g 30 cùng đi thăm nhóm Vĩnh Long. Hôm nay, bác Sulastri và Sumiati cũng đến sớm. Chị Salama ở Biên Hòa cũng lên đi cùng. Cũng những gương mặt cũ là chị Hoàn Toàn Kim Anh, chị Minh Tuệ Vân, Madina Lan, Siêu Nhiên Minh Tâm, anh Hoàn Hương, có thêm khuôn mặt mới là Thiết, Minh Đạo, Ngọc Hải. Còn H, dù muốn hay không cũng phải đi theo anh chị em trên từng cây số.

Nghe nói SDVN đã nhận tiền từ các hội viên bên Pháp để tài trợ cho một trường trung học công lập ở Vĩnh Long, dù đa số các phụ tá không đồng ý, nhưng SDVN đã lỡ hứa nên quyết định này vẫn được thi hành. H tưởng đây cũng là dịp thuận tiện để đưa hai IH cùng cả phái đoàn đi tham quan trường học đó, nhưng anh Hoàn Hương nói công việc chưa đi tới đâu nên đành thôi vậy. 

Xe đi tới Vĩnh Long lúc 10 g. Anh Gương và chị Linh Đài chạy ra đón mừng. Bước vào nhà thấy sao quen thuộc như nhà người bà con. Hải Sơn và Liên Hương sau khi tốt nghiệp đại học, trở về quê làm việc và sống với gia đình. Anh của Hải Sơn là Huy Sanh và em là Siêu Mẫn không về nhà được. Anh Gương yêu cầu chờ anh Trung vì anh gọi điện cho biết 11g anh mới tới được. Nhóm nam ở Vĩnh Long chỉ có vài anh em. Bên nữ, ngoài chị Linh Đài có con gái là Liên Hương được mở cùng lúc với Tí Su Sophia năm 2002, khi Ibu Rahayu sang Việt Nam. Lan Anh được mở vài ngày sau đó, cô Ba Phan là má của Lan Anh và là hội viên cũ với cô Sáu Hồng Ánh. Nhóm Vĩnh Long có mối liên hệ chặt chẽ, nhờ hai vị phụ tá thành tâm và tận tụy là anh Gương và chị Linh Đài.

Anh Gương dự định cất một nhà trẻ ở miếng đất sau nhà. Hi vọng hoạt động SD của nhóm Vĩnh Long sớm được thành lập.

Sau latihan với nhóm Vĩnh Long có trắc nghiệm. Bên nữ cũng là những câu hỏi tương tự như khi làm ở nhóm Saigon. Chị Judy nói ai có thắc mắc gì cứ hỏi nhưng không ai đặt câu hỏi. Chị Linh Đài là phụ tá ở nhóm Vĩnh Long và một hội viên là Liên Hương, con gái chị Linh Đài, có ý muốn đề cử Lan Anh, một hội viên trẻ làm phụ tá dự bị để phụ giúp cho chị Linh Đài trong việc chăm sóc nhóm. Chị Judy và H đồng ý làm trắc nghiệm với phụ tá địa phương và các hội viên, nhưng một vài phụ tá ở Saigon không đồng ý.

Bên nam, sau latihan, anh Mason nói mọi người có thể đặt bất cứ câu hỏi gì. Anh Minh Sao được khai mở từ năm 1972, anh làm latihan tới năm 1975 thì bị đi cải tạo, phải ngưng latihan cho tới năm 2005 mới làm latihan trở lại cho tới nay. Anh thắc mắc không biết anh có tiến bộ gì trong latihan không. Anh Mason làm trắc nghiệm nói hãy cảm nhận xem trước khi vào Subud, anh Minh Sao cảm thấy thế nào. Rồi sau một ngày khai mở, anh thấy nó khác ra sao. Rồi sau một năm, hai năm, anh cảm thấy nó có gì thay đổi. Rồi từ năm 1975 tới năm 2005 ngưng làm latihan, anh cảm thấy thế nào. Và bây giờ làm latihan, anh cảm thấy ra sao. Anh Minh Sao đã tiếp nhận rõ ràng sự khác biệt.

Buổi trưa, anh chị em dùng bữa cơm chung. Sau đó, tất cả cùng đi du thuyền đến khu vườn sinh thái. Chỉ tiếc là trái cây chưa tới độ, nên đó chỉ là một cuộc dạo chơi, xem qua cho biết.

Tới hơn 3g30 xế chiều, mọi người từ giã bà con ở Vĩnh Long để quay trở về Saigon. Vậy mà cũng tới 7g30 tối mới về tới nhà nghỉ Pasteur. Từ giã chị Judy và anh Mason, hẹn gặp nhau … bằng tâm linh lúc 9g tối hôm đó trong xuất latihan viên liên thông cùng với tất cả anh chị em Subud Việt Nam ở các nước như thường lệ vào mỗi tối thứ bảy, cùng giờ với Ibu Rahayu ở Pamulang bên Nam Dương.

Latihan ngày hai lần, chưa kể latihan bốn ngày liên tục, vậy mà không bạo phát cũng hay. Đi đâu cũng theo cùng mọi người, vậy mà không hề thấy mệt mỏi trên suốt con đường… cho tới khi về nhà. Ôi, sao mà rêm mình. Nằm xuống thấy sướng cái lưng. Chà, phải như vậy mới thấy mình hạnh phúc.

Chủ nhật 22/7/2007

Sáng sớm, lo dậy làm cơm nị với cary gà vì nghe nói chị Judy thích ăn cơm cary. Chiều tối qua đi mới về là lo chuẩn bị các thứ, vậy mà tới 8g sáng mới làm xong hết để đem lại nhà nghỉ. Từ hồi hai IH tới Việt Nam, đây là lần đầu tiên H mới lo nấu được bữa cơm tạm coi được để từ giã, vì trưa anh Mason đã trở qua Úc, còn chị Judy cũng phải rời Việt Nam để qua Bỉ thăm con trai trước khi trở về Tân Tây Lan. Mấy bữa trước toàn là mời hai vị dùng phở, bánh cuốn, bún, mì xào, xôi, chè, bánh, cơm rượu … Ôi, cấp dưỡng kiểu này có bị đào thải cũng vừa. Vậy mà lần nào hai vị cũng khen nức nở, món ăn Việt Nam sao đa dạng và ngon lành. Chuyện này cũng là hay không bằng hên.

Lần này cùng dùng bữa với chị Judy và anh Mason, có chị Siêu Linh và Tí Su Sophia với lại H. Một bữa điểm tâm vui, ai cũng ăn nhiều hơn bình thường vì lạ miệng.

Sau đó, anh Mason đi với Minh Đạo mua cà phê.

Tí Su Sophia chở chị Judy, còn H đi với chị Siêu Linh lại bác Sunarti Chí để làm latihan xuất thường lệ vào 10g mỗi sáng chủ nhật. Chị Mariana Sâm Nghiêm và chị Kalima Thanh cũng tới. Sau latihan, chị Judy có vẻ xúc động, chị cầm tay bác mà ứa nước mắt.

Chị Judy còn nói các phụ tá cần phải đoàn kết và cùng hợp tác để có thể săn sóc tốt cho hội viên. Chị Siêu Linh hỏi về thẻ phụ tá cấp cho ba phụ tá mới. Chị Judy hứa sẽ giúp giải quyết. Việc xin tên tâm linh cho ba hội viên mới thì chị Judy nói ở Việt Nam có thể trực tiếp liên lạc với bên Nam Dương. Chị Siêu Linh nhờ H liên lạc.

Sau đó, Tí Su Sophia chở chị Judy về nhà nghỉ Pasteur.

9g tối chị Judy mới bay khỏi Việt Nam. 7g chị ra sân bay. 5 g tới phòng đã thấy vài khuôn mặt quen thuộc: chị Siêu Linh, Bửu Linh, Sương Ngọc. Sau đó, anh Hoàn Hương và Minh Tuệ cũng đến để từ giã chị Judy. Khi trong phòng chỉ toàn phụ nữ, ai cũng thấy thoải mái và tự nhiên hơn. Chị Siêu Linh thấy hai bàn chân chị Judy sưng to, thương quá nên xoa bóp giùm, Tí Su cũng tới phụ giúp một bên. Bửu Linh đấm bóp một bên vai, Sương Ngọc một bên. Vậy là chị Judy được săn sóc kỹ đến tận tứ chi. Cả nhóm cười vang. Chị Judy nói: “Halimah, đừng có chụp hình à nhe!” Tất cả càng cười dữ nữa. Một lúc sau, chị Siêu Linh mới chuyển hướng cho chị Judy ở tư thế nằm. Như vậy, chị Judy vẫn tiếp tục nói chuyện với H, càng thoải mái hơn nữa. Chị nói đây chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên ở Việt Nam.

Ban đầu, chị nói phụ tá nên giúp hội viên tiếp nhận tốt, khi cần nên trắc nghiệm giúp họ để có câu trả lời đúng. H nêu trường hợp một cô gái nhờ trắc nghiệm xem có nên kết hôn với anh này hay không thì nan giải ở chỗ nếu cô ta hạnh phúc thì không sao. Nếu ngược lại, người phụ tá phải chịu trách nhiệm về lời khuyên của mình. Chị Judy trả lời trong trường hợp này, tốt hơn là cùng trắc nghiệm với họ và bảo họ nên nghe theo cảm xúc của chính họ. Đồng thời chị cũng kể lại cuộc hôn nhân của chị lần thứ nhì. Nếu xét bằng tâm trí thì không thể lý giải tại sao, nhưng tuân theo hướng dẫn, chị Judy đã tái hôn với anh John để có thể chứng nghiệm mọi thuận lợi trong cuộc sống của chị. Càng sống với người chồng sau này, chị càng thấy biết ơn Thượng Đế đã chỉ dẫn chị theo đường hướng thích hợp nhất.

Ngồi cùng trên taxi đi ra sân bay, chị Judy đã kể cho H vài chuyện như những bài học nên nhớ. Rồi chị kết luận chị rất quí nhiệt tình của H nhưng chị khuyên H nên làm việc đúng với khả năng mình, hãy giữ sức khỏe và thời gian hơn để làm công việc thích hợp của mình. Hãy để cho những người khác làm bớt công việc, đừng gánh vác nhiều quá. In reality, I did not know what to do, so I just did what I could. May be I was somehow mistaken, but in the end I really fetl happy and peaceful in my inner feeling. H nói trong thời gian này ai cũng mắc bận. Chị nói đó không thể là lý do, phải trắc nghiệm để giao việc cho từng người.

Đến sân bay, gặp chị Siêu Linh, chị Susilawati và Tí Su ra tiễn. Chị Judy tế nhị không muốn làm mất thêm thời giờ người khác nên chị hôn từ biệt từng người rồi đẩy xe hành lý vào phòng kính. Chị quay lại ba lần vẫy tay chào.

Dù thật lòng có hơi buồn vì xa một người đáng quí mến như chị Judy, nhưng chị Siêu Linh cũng như H đều thở phào nhẹ nhõm. Lạy Trời thương đã cho chúng con làm tròn nhiệm vụ một cách tốt đẹp.

Chị Judy và anh Mason cũng đã làm tròn nhiệm vụ IH của Bapak. Hai vị đã hỗ trợ anh chị em Subud Việt Nam được tiếp nhận tốt hơn. Dù hai vị đã nói rằng bản thân không hề làm gì khác, chỉ đơn giản là làm latihan chung với mọi người. Nhưng qua tấm lòng trong sạch đầy thiện nguyện, hai vị IH này đã được Thượng Đế cho là kênh dẫn truyền để một lần nữa đem lại luồng gió mới cho Subud Việt Nam. Trước đó, cũng đã từng có các vị IH khác đến. Mỗi lần, mọi người có những chứng nghiệm khác nhau, tất cả đều là những bài học trên con đường tu tập tâm linh cho anh chị em ở Việt Nam.

Một số anh chị em nhìn lầm anh Manson là anh Murray Clapham, người đã đến thăm Subud Việt Nam nhiều lần. Và lần khó quên nhất là vào năm 1996, lúc đó anh Murray Clapham đang làm chủ tịch vùng 1 và 2 nhiệm kỳ 1994- 1997. Năm đó, anh Murray đã cùng đi với chị Saodah Hayashi, người Nhật, chị là IH đầu tiên đến Việt Nam.

Dù đã lâu nhưng hình ảnh các vị IH khó phai mờ đối với mọi người.

Trước khi rời Việt Nam, chị Judy và anh Mason đã tặng một tấm thiệp có hình một cây dương xỉ đâm chồi nẩy lộc, biểu tượng cổ điển của Tân Tây Lan. Chồi lá xoắn lại mang mầm sống tượng trưng cho sự an bình và yên tĩnh với ý nghĩa tăng trưởng lần nữa và một khởi đầu mới. Chị Judy đã ghi lại những giòng chữ cám ơn anh chị em Subud Việt Nam về lòng hiếu khách, sự rộng rãi và nhiệt thành của anh chị em đã đem lại cho hai vị IH sự hài lòng và mãn nguyện trong thời gian lưu lại nơi đây. Hai vị đã cầu xin Thượng Đế ban ân phúc dồi dào cho Subud Việt Nam và cho tất cả cùng được tăng trưởng trong Subud. 

Có một khoản tiền chị Judy đưa H bảo để đi xe về và phần còn lại biếu Subud VN, H đưa chị Siêu Linh giữ. Cả nhóm đồng ý lấy phần tiền H đi xe để đi ăn phở chay. Lại được một trận cười vui như trúng số. Lúc đó bản chất trẻ thơ trong mọi người hiển lộ rõ nét.

Những ngày sau đó, đầu óc H hoàn toàn rỗng không, tâm thì thảnh thơi nhẹ nhàng và hầu như chẳng còn nhớ một chút gì.

Mà tình thật thì rất muốn kể lại để chia sẻ cho anh chị em. Có cố lắm cũng chỉ đúng được 70%. Còn 30% kia đã đi vào quên lãng, chẳng biết có lúc nào hồi tưởng lại được và có ý muốn nhắc tới hay không, khi nó bao gồm cả những tiêu cực.

Chợt nghĩ tới câu ngày xưa khi còn bé đã từng được xem qua:
Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi, trúc bất lưu thanh.
Nhạn độ hàn đàm, nhạn khứ nhi, hồ bất lưu ảnh.
Cố quân tử, sự đáo nhi, tâm tùy ứng, sự khứ nhi, tâm tùy không. 

Gió lay cành trúc, gió qua rồi, trúc lại yên lặng, không xào xạc nữa.
Chim nhạn bay qua mặt hồ yên ả vào mùa đông, nhạn bay đi rồi, mặt hồ không lưu bóng nhạn.
Cho nên người quân tử khi có việc tới thì tùy cơ ứng biến. Khi việc xong rồi thì tâm lại an tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. 

Thật sự thì con người vốn yếu đuối, cái tâm dễ bị lôi cuốn trước mọi ảnh hưởng như cành mềm trước cơn gió lốc. Với ân huệ của Thượng Đế, con người được hướng dẫn để có thể thắng vượt những tình cảm ủy mị thường khiến họ dễ bị phân tâm. Nhờ sự hỗ trợ của Thượng Đế, họ chỉ có thể thấy trước mắt con đường đi tới để hoàn thành nhiệm vụ và khi mọi việc xong rồi, con người thường được Thượng Đế làm cho quên hầu hết mọi chuyện. Với latihan tâm linh, con người bình thường được hướng dẫn cho có cung cách của bậc chính nhân quân tử, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng không bao giờ đánh mất đi khí tiết.

 
  xem hình chuyến viếng thăm  
     
 
  © 2007 Góc Nhỏ