Mintardjo Võ Văn Vũ

1941-2013

Tạ thế ngày 04 tháng 03 năm 2013 tại Wien, Áo quốc. An táng tại nghĩa trang Hồi giáo ngày 08.03.2013.

Họa sĩ, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Quốc gia Việt Nam, Gia Định.

Tốt nghiệp sĩ quan trường Fort Benning, Georgia, Mỹ.

Giáo sư giãng dạy Anh ngữ trường Sinh ngữ Quân đội.

Khai mở vào Subud trước năm 1975. Định cư tại Áo tháng 6 năm 1975. Trưởng nhóm Thái 29 nhiệm kỳ đầu tiên. Hội trưởng Subud Áo. Phụ tá Subud chi hội Wien và phụ tá quốc gia Subud Áo.

 
 
  Tin liên quan đến việc ra đi của Mintardjo  
 

Quý anh chị em Subud kinh mến,

Margono thay mặt gia đình anh Mintardjo Võ Văn Vũ báo đến quý anh chị em một tin buồn:

Anh Mintardjo vừa được Thiêng Liêng Toàn Năng đón về ngày hôm nay.

Ngày mai sẽ có xuất Latihan đặc biệt tại nhà hội Subud Áo cầu nguyện cho anh. Đời người như cơn gió thoảng. Thứ Sáu vừa qua Margono còn tập chung với anh xuất latihan ở nhà hội. Margono mới vừa được biết tin này qua gia đình anh cách đây ít phút. Anh chị em nhóm Thái 29 xin quý anh chị nhín chút thời giờ tập xuất latihan cầu nguyện cho anh. Đa tạ các anh chị.

Margono Lê Văn Tấn & gia đình Mintardjo Võ Văn Vũ.

Margono Tấn thân mến, Cám ơn Margono cho biết tin anh Mintadjo vừa từ trần tại Áo. Hoàn Toàn cầu nguyện Thượng Đế ban ân, che chở, hướng dẫn và soi sáng linh hồn anh Mintadjo nơi thế giới bên kia. Cho Hoàn Toàn gởi lời chia buồn đến chị Mintardjo và gia đình. Hoàn Toàn sẽ tập latihan cầu nguyện cho anh Mintardjo. Hay là chíng ta cùng tập latihan chung ngày thứ Bảy này để cầu nguyện cho anh ấy. Thân mến,

Hoàn Toàn

- Em sẽ tập xuất latihan đặc biệt vào ngày mai chung với toàn thể anh em Subud Áo, sau xuất latihan thường lệ tại nhà hội. Margono Tấn.

- Tối mai Hoàn Toàn cũng sẽ tập latihan cầu nguyện cho anh ấy chung với Subud Áo và Margono. Thân mến, Hoàn Toàn

Anh Mintardjo Võ Văn Vũ đã ra đi thật bất ngờ quá, buổi Latihan ngày thứ sáu ngày 01 tháng 03 năm 2013 vừa qua không ngờ lại là xuất tập cuối cùng của Anh, và cũng là cái duyên nên Hoàng Nam cũng được tập Latihan chung với Anh, tuy khác không gian nhưng cùng một thời gian.

Gia đình Hoàng Nam xin Thành Kính Phân Ưu cùng gia đình gia đình Chị Mintardjo và tập Latihan cầu nguyện xin Thiêng Liêng ban ân huệ và dẫn dắt hương hồn Anh Mintardjo Võ Văn Vũ về Miền Vĩnh Phúc.

Thành Kính Phân Ưu

Gia đình Hoàng Nam Hartono

- Cám ơn em đã cho biết lịch trình, vậy ngày mai buổi sáng bên Westminster, Nam Cali này, lúc 10 giờ 30, ngày thứ ba ngày 05 tháng 03 năm 2013, anh sẽ cùng chung tập xuất Latihan 30 phút. Sau đó đến 11 giờ sẽ tập tiếp tục để cầu nguyện cho Anh Mintardjo Vũ.

Gia đình chúng tôi xin thành kính chia buồn cùng chị MINTARDJO, CẦU XIN TĐTN HƯỚNG DẨN LINH HỒN Mintardjo về miềnTiên cảnh.

Amrin & Murniati, Liliani +

Margono Tấn. Nhớ bồ gởi lời chia buồn đến chị Mintardjo. Gia đình Margono Dũng cùng cầu nguyện với các anh chị Subud cho anh Mintardjo đến nơi an nghĩ cuối cùng. Cảm ơn Bồ.

Margono Dũng

Gia Đình Tuhientram xin gởi lời Thành Kính Phân Ưu cùng Gia Đình anh Mintardjo Vũ. Cầu xin Thiêng Liêng Toàn Năng đón anh về cùng Ân Phước. Al Hamdu Lilah.

Anh Margono Tấn kính thân mến, Xin cám ơn anh đã báo tin, thật đột ngột nghe tin Anh Mintarjo Vũ đã ra đi nhanh chóng qúa! Cầu xin Thượng Đế Toàn Năng Ban Ân Soi Sáng Dẫn Dắt LINH HỒN Anh MINTARDJO VŨ sớm về cõi VĨNH HẰNG. Amen. Chúng tôi nhớ năm nào còn gặp anh chị Mintarjo Hartini và các cháu cùng qúy huynh đệ mình sum vầy Tâm Linh thật vui vẻ ở Hội Nghị Subud INSBRUCK, Áo Quốc ? Xin anh vui lòng chuyển lời thành kính của Chúng tôi và gia đình đến chị Hartini . Nếu có thể anh cho chúng tôi số phone của chị Hartini, khi nào thuận tiện sẽ hỏi thăm chị.

"Đời người nghĩ thật vô thường
Phút gặp nhau đó ra đi lúc nào?
Huynh đệ còn lại nơi đây
Gặp nhau xin hãy hết lòng với nhau".

Barata Sudharmi Sophie và Gia Đình.

Thành kính chia buồn cùng gia đình anh Mintardjo Võ Văn Vũ Cầu xin Thiêng Liêng đưa anh về nơi Bình An Vĩnh Cửu.

Liêm Minh & Halimah Lý

Anh Margono thân mến, Cho Lan Thanh gửi lời chia buồn đến chị Hartini và gia đình và cầu nguyện Thuợng Đế ban Ân, soi sáng và hướng dẫn linh hồn anh Mintardjo nơi thế giới bên kia.

Lan Thanh

Anh Tấn mến, Em rất sửng sốt khi nghe tin anh Mintardjo Vũ qua đời. Đúng như anh nói đời người như cơn gió thoảng, thấy đó rồi mất đó... Anh Vũ ra đi vì lý do gì vậy anh? Khi nào anh gặp chị Vũ, cho em và gia đình em gửi lời chia buồn cùng chị và gia đình, nha anh. Cám ơn anh nhiều.

Em Hiếu

Chị Hartini quý mến, sững sờ khi Liêm Khiết nghe tin anh Mintardjo Võ Văn Vũ được Thiêng Liêng rước về. Liêm Khiết và gia đình xin chân thành chia buồn cùng chị và các cháu. Nguyện cầu xin Allah ban ân lành đến anh Mintardjo và hướng dẫn anh theo Thánh Ý của Allah. Amen.

Từ nơi ALLAH anh Mintardjo đến,
Tới nơi ALLAH anh Minhtarjo về.

Chị Hartini ơi, là một huynh đệ Subud có nhiều kỷ niệm khó quên với anh MINTARDJO và gia đình chị nhất là chuyến di tản tâm linh năm 75, Liêm Khiết chỉ đưa ra một kỷ niệm nầy thôi để nhắc nhớ lại lòng kính yêu anh Minhtardjo dù anh ở bất cứ nơi nào. Riêng chị rán giữ gìn sức khoẻ. Thân quý,

Liêm Khiết

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU cùng Chị Hartini và các Cháu. Cầu xin Thượng-Đế Toàn-Năng Thương-Xót và Ban Ân-Huệ cho MINTARDJO ở Thế giới bên kia. Thay mặt toàn thể Anh Chi Em SUBUD VIET-NAM tại ÚC

Aamirudin Nguyễn-như-Tuyền và gia đình Minh-Sư và gia đình Mawardi Trương trung Hậu và gia đình

Hồng Hạnh xin cầu nguyện cho linh hồn anh Mintardjo sớm được Thiêng Liêng dẫn dắt về cõi vĩnh hằng. Đối với SB VN anh Mintardjo Vũ là một người anh rất thân quen không những chỉ bằng sự thâm niên trong gia đình SB mả còn được anh, chị, em kính trọng và nể nang nhờ phong thái điềm đạm và cách cư xử chân tình của anh với mọi người. Hồng Hạnh sẽ báo tin cho các anh, chị, em để cầu nguyện cho anh. Đồng thời cũng nhờ Margono gửi lời chia buồn đến chị Mintardjo và gia đình. Hồng Hạnh (Kim Dung) là người đã từng qua Áo ghé thăm anh, chị tại nhà vào năm 2001, và cũng được anh. chị bảo lãnh để tham quan tòa nhà Liên Hiệp quốc tại Áo. Hồng Hạnh nhớ mãi như in hình ảnh anh, chị lúc đó. Xin được chia xẽ sự mất mát lớn lao này cùng chị.

Hồng Hạnh

Xin nhờ anh Margono chuyển lời chia buồn của Mỹ Hạnh đến chị Hartini và gia đình và cầu xin Thượng Đế ban Ân và dẫn dắt linh hồn anh Mintardjo bên thế giới bên kia.

Mỹ Hạnh

Tấn thân, Tin thật bất ngờ! Bao nhiêu kỷ niệm với anh Vũ lại hiện về. Thật khó diễn tả tâm tư lúc này, Tấn à! Cám ơn bồ đã cho tin. Cách đây độ khoảng 2 tuần anh Tuyền có gọi điện thoại hỏi thăm tôi. (Độ rày tôi ít gặp ảnh nên thỉnh thoảng tụi tôi gọi thăm nhau). Ảnh có kể tôi nghe 1 chuyện. Ảnh “thấy“ dường như có 1 huynh đệ nào đó qua đời nên anh gọi tôi. Bây giờ anh Vũ qua đời, chỉ mong anh được yên bình về với Thiêng Liêng. Lần nữa cám ơn bồ! Mong bồ và gia đình luôn được bình yên, vui khỏe. Nếu được bồ cho tôi xin số điện thoại của chị Vũ.

Bạn bồ, Hậu

Nhờ Margono chuyển lời giúp đến Chi Hartini và các Cháu lời chia buồn của gia đình Minh Hoàng. Cầu xin Thượng Đế Toàn Năng Thương Xót và Ban Ân-Huệ cho anh MINTARDJO được về cõi sáng. Cám ơn Margono nhiều. Chào.

Minh Hoàng.

Không ngờ, nay được tin anh Mintardjo đã ra đi

Tuy thân tứ đại hữu hoàn vô
Tử biệt tác nhân xúc cảm phô
Tao ngộ cơ duyên thực hãn hữu
Nguyện cầu nhân vãng nhất an khô

Hardjono 03/09/20013

Margono cũng đã đưa tận tay chị Hartini các lời chia buồn của tất cả quý anh chị. Chị nhờ Margono chuyển lời cám ơn đến các anh chị. Margono Tấn.

 
  Vài hình ảnh tượng trưng tang lễ Mintardjo Võ Văn Vũ  
 
   
  trong nhà nguyện  
 
 
  gia đình Mintardjo: Huber (rể), Sriyati, Sutadi (trưởng nam), Hartini (vợ), Martono, Sulastri, Harmini (trưởng nữ)  
 
Thiện Nhân Mardiono (thứ nam), Hoàng Cung Muryati (thứ nữ), phía sau là nhóm Subud
 
   
  một phần nhóm Subud Áo  
 

 

 
 
Thiện Nhân xúc đất tiễn cha Nữ hội viên Subud Áo, Ranita (Liên Hồng) & Melissa (con Ranita, phụ tá trẻ chi hội Wien)
 
 
   
 
 
Hoàng Thanh và Mintarti Gái Hoàng Cung và Harmini Thảo
 
   
  Margono Tấn và Minh Thần  
   
  nghĩa trang Hồi giáo  
 

Vài Dòng Tưởng Nhớ Mintardjo

Hoàng Cung Nguyễn Văn Lưu, 12.03.2013

 
Hoàng Cung  

Ngày 8.3.2013, chúng ta đã tiễn đưa anh Mintardjo tới nghiã trang Hồi giáo tại Wien 1230. Tang lễ được cử hành thật đơn giản (?!) theo phong tục của người Hồi giáo. Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp hiện diện trong buổi lễ khá nhiều.

Trong giờ phút  xúc động và đau đớn đó, trước mắt chúng ta hình như từ từ xuất hiện ra 2 thế giới.

Một thế giới của những người còn lại, đang sinh sống và phấn đấu trong thế gian hiện tại này.

Một  thế giới khác hẳn, thế giới của những người quá cố.

Hai thế giới này được nối liền nhau bởi một cây cầu.

Chúng ta đang đứng trên nhịp cầu này với nhiều cảm xúc hoang mang, xáo trộn: thương nhớ, đau buồn, mất mát, tuyệt vọng, trống vắng …

Chúng ta còn nhớ rõ ràng, tình đồng đạo, tình bạn hữu đã gắn bó chúng ta với Mintardjo từ hơn 40 năm qua.

Mintardjo và chúng ta đã cùng với nhau đi trên một con đường, để sùng bái, cầu nguyện và hi vọng tìm thấy một thế giới vĩnh cữu, một thế giới chỉ có tình yêu thương chân thật mà không có hận thù, một thế giới chỉ có bình an mà không có thiên tai, thãm họa, một thế giới chỉ có hòa bình mà không có chiến tranh, một thế giới chỉ có hòa hợp mà không có chia rẽ, một thế giới chỉ có đời đời xum họp mà không có chia ly, phân tán!

Chúng ta đứng trên cầu, chúng ta biết Mintarjo đã rời bỏ thế giới hiện tại của chúng ta để bắt đầu qua một thế giới khác. Chúng ta thành tâm cầu nguyện cho Mintardjo sẽ được sớm về thế giới mà lúc sinh thời anh luôn luôn thành tâm, sùng bái và cầu nguyện. Chúng ta tin chắc anh sẽ về Thiên đường như ý anh hằng ao ước và cầu nguyện.

Mintardjo sẽ không chết, Mintardjo rời bỏ thế giới hỗn loạn của chúng ta để về một thế giới khác tốt đẹp hơn, Mintardjo sẽ sống vĩnh cữu trong tâm của gia đình Anh, của các bạn bè đồng chí hướng với Anh.


 
     
 

tưởng nhớ anh Mintardjo

Mawardi Trương Trung Hậu, 07.03.2013

Từ khi hoạt động ở hội (xã hội, sách báo,…) tôi được dịp gặp nhiều Huynh Đệ nhưng tôi không rõ quen biết anh Mintardjo từ thuở nào, chỉ nhớ đến dấp dáng của anh: to lớn, chững chạc, bắt tay như ‘lính’,…

Rồi biến cố ‘tháng Tư 1975’ xảy đến, khi chương trình di tản của hội coi như chấm dứt (sau khi TT Dương văn Minh tuyên bố  trên radio đầu hàng vô điều kiện) và những người còn lại ở hội tìm cách nào đó để vượt biên. Tôi không nhớ rõ anh Mintardjo bắt đầu làm trưởng nhóm từ lúc này hay trước đó nữa và tôi được giao phó làm thư ký ‘bất đắc dỉ’ của nhóm.

Trong công việc anh biểu gì tôi làm nấy và dường như không có dịp tán gẩu...

Mintardjo & Mawardi Trương Trung Hậu

 

Từ khi lên Trung học, phải chọn môn sinh ngữ. Má tôi nói nếu tôi chọn Pháp văn bà còn có thể giúp tôi chút đỉnh còn như Anh văn thì bà bù trất, do đó tôi chọn Pháp văn. Tôi rất thích học sinh ngữ vì nghĩ đó là cách để mở rộng tầm mắt, kiến thức. Tôi cố gắng nhiều (về văn phạm, ngữ vựng,…) nên kết quả trong lớp luôn trên trung bình (điểm từ 14-16/20). Nhưng tôi có nỗi khổ tâm riêng: không nghe và nói được tiếng Pháp. Có lần theo lời khuyên của bạn bè tôi đến Hội văn hóa Pháp để xem phim (không có phụ đề Việt ngữ). Kết quả càng buồn thêm vì không hiểu gì cả…

Bắt đầu lớp đệ tam tôi có thêm Anh văn là sinh ngữ thứ hai. Niềm vui trở lại vì lúc đó Anh văn rất thịnh hành. Học trong lớp rất trôi chảy nhưng rồi vấn đề vẫn vậy: tôi vẫn không nghe và nói được tiếng Anh. Thời đó có nhiều người Mỹ đến nhà tôi (vì anh em bà con đi lính, dẫn bạn Mỹ về nhà). Tôi còn nhớ tôi chỉ có thể nói và hiểu được 1, 2 câu chào hỏi rồi tịt luôn. Nỗi buồn càng thêm dai dứt …

Tôi ghi tên học Hội Việt Mỹ, lên lớp đều đều nhưng kết quả khi giao du với người ngoại quốc vẫn không thay đổi. Đến lớp 11 một hôm tôi chờ các bạn trong lớp ra về, tôi xin phép thầy tôi hỏi vì sao với bao nhiêu công khó nhọc tôi vẫn không nói và hiểu được tiếng Anh. Thầy cười thông cảm và giải thích bởi vì tôi học ngoại ngữ mà trong đầu tôi toàn tiếng Việt. Theo ý thầy khi học ngoại ngữ tất cả giác quan chỉ nên tập trung vào ngôn ngữ ấy mà thôi, nghĩa là tôi phải sống ở nước ngoài, nếu có thể được. Từ đó ước mộng đi du học lại càng gia tăng, tự túc thì không có khả năng chỉ còn mơ đến học bỗng thôi…

Trong trại tỵ nạn ở Songkhla tôi được dịp chứng kiến anh Mintardjo đối thoại với người ngoại quốc, phục anh lắm và khi biết được anh dạy Anh ngữ trong quân đội, hèn chi. Và một dịp nào đó tôi bày tỏ tâm sự về ngoại ngữ của tôi, anh khuyên tôi nên học theo lối quân đội Mỹ, mặc dù ngôn từ rất đơn giản nhưng cứ đọc đi đọc lại, không cần thiết phải hiểu văn phạm, phải đọc to và cả nguyên câu không đứt đoạn. Tôi rất khích động về lời giải thích của anh và hiểu vì sao anh Hiếu của tôi, rớt tú tài phải đi lính hải quân. Trong những năm Mỹ rút lui, bàn giao với QĐVNCH, anh Hiếu có về Saigon học tiếng Mỹ và tôi thường tò mò xem sách của anh học có những gì. Tôi thường lật quyển sách dầy cộm của anh từ đầu đến cuối mà chẳng thấy có gì mà tôi không hiểu, dễ quá. Thế rồi chỉ vài tháng sau anh đi Mỹ huấn thụ rồi về, tôi phục quá cứ tưởng rằng vì anh có cơ hội đi ngoại quốc, bắt buộc phải xài tiếng Mỹ…

Khi sang Áo với bao nỗi u hoài tôi không quên coi đây là cơ hội ‘du học’ hiếm có. Những tháng đầu ở trại tỵ nạn ở Mödling có lớp học tiếng Đức, Subud Áo có tặng nhóm 1 băng cassette đàm thoại tiếng Đức, huynh đệ trong nhóm sang ra để học thêm. Riêng tôi để áp dụng nguyên tắc anh Mintardjo chỉ, khi sang băng sau mỗi câu đàm thoại tôi để ngắt khoảng 1 khúc băng trống khá dài, để khi nghe đến khúc này tôi ráng lặp lại y chang. Lúc đầu khó khăn, chưa đọc xong câu tới lại đến… nhưng rồi cũng quen.

Đó là cách tôi học tiếng Đức, đã giúp tôi rất nhiều trên những ngày tháng lặn lội nơi xứ người. Một chữ cũng thầy, ngoài tình Huynh Đệ Subud tôi mang ơn này đối với anh Mintardjo, nay có dịp để nói lên lòng cảm phục của tôi đối với anh.

Em xin được chia sẻ tâm tình này với chị Hartini và gia đình.

Cầu chúc anh được về với Đấng Thiêng Liêng như anh hằng mơ ước. Amen!

Em Mawardi Hậu

Lá thư về bài viết trên: Tấn thân, Tâm thần thật lung tung (nghe tin anh mất) nên hôm nay vào sở mà có làm được gì đâu, nên tôi viết vài hàng tưởng nhớ anh Mintardjo. Bạn bồ, Hậu.

 
 
 

Chặng đường đời với Mintardjo, người anh không chỉ đơn thuần trong Subud

Margono Lê Văn Tấn, 13.03.2013

Tôi chỉ thấy anh Mintardjo thấp thoáng đôi lần tại nhà hội. Tôi chưa quen anh bao giờ, cho đến những ngày cuối tháng Tư năm 75 ở nhà hội. Đêm cuối của chúng tôi ở đó, sau khi mấy anh phụ tá và các anh lâu năm trong Subud trắc nghiệm ra đi. Tôi chỉ tham dự latihan, tới lúc đó tôi chưa biết trắc nghiệm như thế nào, tiếp nhận ra sao khi nhận được, nên chỉ ngồi yên ở góc phòng chờ. Tâm trạng trống rỗng, không biết sẽ quyết định như thế nào. [Nhiều năm sau này tôi mới biết là Thiêng Liêng đã cho tôi biết về việc ra đi rồi mà lúc đó tôi không biết. Khoảng thời gian gần đó tôi thường nhìn mẹ, mỗi lần nhìn dáng mẹ, lòng tôi buồn vô hạn, và nghĩ nếu không còn nhìn thấy được mẹ nữa thì bất hạnh biết bao nhiêu. Tôi tưởng Thiêng Liêng báo cho tôi biết là mẹ sắp mất. Đâu ngờ Thiêng Liêng đã chuẩn bị cho tôi một chuyến xa mẹ tôi, xa đúng 19 năm, tới khi mẹ tôi đến Áo thăm tôi]. Sau trắc nghiệm mọi người ngồi lại thành vòng tròn. Anh Mintardjo hỏi từng người đi hay ở. Đó là câu đầu tiên mà anh nói với tôi. Bắt đầu từ đó cuộc đời tôi gắn liền với anh và gia đình anh cho tới lúc chia tay vĩnh viễn trên cõi đời này bây giờ. 

Lần thứ hai anh nói chuyện với tôi cũng là một câu hỏi. Tôi đang ngồi bên vệ đường, nhìn con đường dẫn về quê mẹ ở Mỹ Tho lòng buồn hiu. Trên đường ra đi, xe bị bễ bánh phải dừng lại. Chỉ một đoạn đường ngắn nữa là tới nhà bà ngoại, nhà mấy cậu, mấy dì. Tôi lại sắp đi về phương trời nào đó bỏ hẳn cả quê hương yêu dấu. Anh hỏi tôi: „Em ăn gì chưa?“. Tôi cảm động nhìn anh, anh đúng là người coi sóc chúng tôi trên đường vượt biên này.  

Những ngày đầu ở trại tị nạn tôi cũng không nói chuyện được gì nhiều với anh. Một hôm tôi đang ngồi ngoài cầu tàu (trại tị nạn chúng tôi ở là căn cứ HQ Hoàng gia Thái). Những lúc không có chuyện gì làm, tôi hay ra đây ngồi, nhìn trời nước mênh mông. Thả hồn về quê mẹ. Anh Sĩ (đã mất) lại nói với tôi: „Hai anh em mình vào nói chuyện với anh Vũ, anh ấy đi định cư nơi nào cho hai anh em mình theo cùng. Anh ấy là người tốt, biết thương anh em“. Tôi đi cùng anh Sĩ vào gặp anh. Anh Sĩ nói lại mục đích. Anh nhìn anh Sĩ: „Anh đi với gia đình bên anh đi“. Rồi anh quay sang tôi: „Em đi với anh. Gia đình anh đi đâu em đi đó.“ Tôi tứ cố vô thân, trong Subud lúc đó chỉ biết Hậu, Mão, anh Hướng Thiện, anh Phương và anh Hoàn Toàn. Tôi nhìn anh vô cùng cảm động, người tôi chưa hề quen, chưa biết tôi, lại có thể cho tôi theo cùng. Từ đó khoảng cách giữa anh và tôi thu ngắn lại dần, rồi trở thành tình thân lúc nào không biết.

Có lần ở đó anh kể cho tôi nghe một câu chuyện. Anh với anh Phát Tâm là đôi bạn thân. Anh theo anh Phát Tâm đi coi bói. Anh không tin vào bói toán, chỉ đi theo vì anh Phát Tâm rủ. Ông thầy bói mù coi cho anh Phát Tâm xong, quay sang anh nói, muốn coi cho anh. Anh không muốn và nói thẳng anh không tin. Ông thầy bói vẫn cứ coi. Anh nói với tôi, em coi ông ta nói như vầy làm sao anh tin được. „Anh sắp đi ngoại quốc ở luôn, và đi Âu châu. Anh có tất cả 7 người con“. Anh tiếp lời, anh là lính làm sao đi ngoại quốc ở luôn được, lại đi Âu châu. Nếu có đi thì đi Mỹ thôi. Tới lúc đó anh đã đi Mỹ huấn luyện nhiều lần. Anh tốt nghiệp SQ trường Fort Bening ở Georgia. Anh kết luận: „Ông này nói đúng gần được một nửa rồi (đi ngoại quốc ở luôn, lúc anh kể chúng tôi chưa biết sẽ đi Áo). Để coi nửa sau có đúng không (7 đứa con)“. Đời sống ở Áo cũng đâu dễ dàng gì, 3 đứa con đã là quá mệt, vậy mà tụi nó cứ lần lượt chui ra làm con anh chị. Anh chị cố giữ đến mức nào cũng không xong. Tới đứa thứ bảy thì chị Hartini cho hết đồ con nít không giữ lại nữa để dành cho đứa kế. Ông thầy bói chẳng nói là anh chị chỉ 7 đứa hay sao! Anh nói với tôi, khoa bói toán cũng có gì huyền bí mà mình không hiểu nỗi.

 

 

Anh là một họa sĩ, anh tốt nghiệp trường Mỹ thuật Quốc gia. Hành trang vượt biên của anh là một va li nhỏ, ít đồ con nít cho 3 đứa con của anh và bó cọ vẽ. Tôi mê vẽ, nên lúc nào anh nói chuyện về hội họa là tôi ngồi nghe không biết chán. Anh nói có lúc anh vẽ chân dung cho mấy tên lính Mỹ kiếm tiền. Anh chỉ tôi, một ít về kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu. Cách nhìn gương mặt một người kiếm nét đặc biệt của họ để vẽ truyền chân. Anh nói, em chỉ cần biết điểm này là có vẽ các điểm khác không đúng vẫn giống nhân vật mà mình vẽ. Cho tới ngày nay, tôi vẫn ngù ngờ không nhìn nỗi nét nào là nét đặc thù của mỗi người trên gương mặt họ. Khó quá, vì thế mà tranh tôi nhiều khi không giống mấy. Mỗi khi anh nghe tôi nói, em vừa vẽ xong một bức tranh. Anh phóng xe lên nhà tôi ngay. Anh ngồi xem, chỉ những chỗ vẽ chưa tới, chưa đạt.

Anh tâm sự, khi nào anh về hưu, anh sẽ vẽ hết xung quanh các bức tường nhà anh, các chứng nghiệm mà anh có trong đời. Tôi chờ đợi ngày đó, để được nhìn những bức tranh vẽ đẹp thần sầu của anh, nhưng ngày đó không còn nữa. Anh đã về hưu từ lâu, nhưng giòng đời vẫn cuốn anh vào đó, khiến anh không còn thời giờ để làm những điều mà anh ước mong.

Khi anh sang Tân Tây Lan, dự ĐHTG, anh mới được Hậu cho biết web Góc Nhỏ. Tôi thì cứ lấy làm lạ, tại sao có người nào ở bên đó lên web tôi đều đều mà lại thường xuyên vào trang vẽ và hình ảnh là nhiều nhất. Tôi đâu nghĩ được là anh. Thôi cũng an ủi cho tôi, mấy bức tranh tôi vẽ sau này đã được anh nhìn qua. Từ ngày anh ở Việt Nam về, anh sống chỉ như chiếc bóng: đến hội tập latihan và về không còn muốn giao tiếp gì với ai nữa. Có lần gần đây sau xuất latihan, gặp được anh, tôi thu hết can đảm nói với anh: „Anh vẽ cho em xin mấy bức đưa lên web. Anh rán cầm cọ lại đi.“ Anh nói, anh bận quá, sẽ cố. Tôi tinh cờ được biết là anh rất bận, có lần tôi gặp anh chị trên chuyến xe đi làm buổi sáng sớm. Anh chị lại nhà đứa con gái trông con dùm cho nó. Ngoài ra, tôi được biết anh đã qua vài cuộc giải phẩu gì đó. Chị len lén anh nói với tôi, nặng lắm em, nhưng không nói rõ gì hơn. Tôi không rõ sức khỏe anh lúc đó như thế nào, cũng không dám hỏi. Một lần nhìn thấy anh chống gậy đi tập latihan, tôi bàng hoàng.

 

Nay thì anh không còn nữa và tôi chỉ có 1 bức vẽ mực „chưa vừa ý“ của anh mà thôi. Đây là bức hình anh định bỏ. Khi xưa thời còn trẻ thỉnh thoảng tôi viết bài gởi đăng báo, đây là một thú vui, và kiếm được tí tiền. Nhuận bút chỉ có 20 USD, nhưng đời sinh viên nghèo, số tiền này cũng là lớn cho tôi thuở đó. Những chuyện tôi viết, tôi thường vẽ kèm 1 tấm hình về nội dung truyện. Mỗi lần được đăng bài, tôi mang tạp chí tới đưa cho anh xem tấm hình vẽ đi kèm với truyện. Tôi luôn nhận được lời chỉ dẫn của anh cho lần vẽ tới. Một hôm, tôi viết truyện về một chàng phi công, coi bộ vẽ không xuễ, tôi tới nhờ anh. Anh nhận lời ngay. Ít hôm sau tôi tới nhà anh, anh lôi từ trong hộc bàn 1 xấp giấy vẽ, có lẽ trên 10 tấm, những tấm anh vẽ mà không hài lòng. Tôi sững sờ, tôi đâu ngờ chỉ 1 tấm hình như vậy mà anh bỏ công ra quá nhiều. Tấm nào cũng đẹp cả. Tấm tôi để theo bài này là tấm chót mà anh vẫn „chê“. Tôi sợ anh bỏ đi thì uổng quá. Anh cho em xin. Anh vẽ cho tôi tấm khác, tấm tôi gởi đi cùng với truyện quả thật đẹp hơn tấm này quá nhiều. Điều tôi đau xót là truyện tôi gởi cùng với tấm vẽ của anh một đi không trở lại. Trong đời viết báo ở hải ngoại, tôi chưa bao giờ bị loại bài nào (không phải tôi viết hay mà vì mấy tạp chí cần bài), vậy mà bài này với công anh vẽ đã đi vào cõi hư vô. Tôi với anh không có duyên văn nghệ. Nay tôi lập web góc nhỏ với trang văn nghệ, đây là mãnh vườn nhỏ của riêng tôi và các huynh đệ yêu nó. Tôi hy vọng ngày nào đó sẽ là nơi tràn ngập tranh của anh. Ngày đó không bao giờ còn tới nữa. Tôi với anh quả thật không có duyên với nhau.

Anh không chỉ có hoa tay để vẽ mà còn khéo tay trong mấy việc khác nữa. Anh may đồ mặc không thua gì các thợ may chuyên nghiệp. Nghề đầu tiên khi anh mới tới Áo là làm thợ may áo da mùa đông cho một hãng của một người Do Thái. Anh đem các da vụn ở đó về, may ráp nối thành các áo khoác hay các găng tay đẹp vô cùng cho gia đình anh và tặng bạn bè. Người lạ nhìn vào tưởng những chỗ ráp nối là tại cái kiểu mà anh cố ý làm, chứ đâu biết vì là da vụn nên phải làm như vậy. Anh may cho tôi một đôi găng tay da thú thứ thiệt. Đám bạn sinh viên của tôi thời đó nhìn cứ tưởng tôi mua ở tiệm. Còn tưởng tôi nghèo mà dám chơi sang. Găng tay da thiệt mắc lắm. Có đứa còn biểu tôi chỉ chỗ để đi mua.

Chẳng bao lâu sau, anh vào làm được trong cơ quan Liên Hiệp Quốc. Đúng nghể, nơi đây anh được dịp mỗi ngày nói tiếng Anh, khỏi phải học và nói tiếng Đức, một thứ tiếng quá khó khăn với anh. Anh là cựu trung úy QLVNCH, dạy Anh văn trường sinh ngữ quân đội.

khóa huấn luyện Anh ngữ

 

Cũng vì anh không chịu học tiếng Đức, hay chỉ học qua loa đủ nghe hiểu và nói đại khái mà một lần anh nhờ tôi. Em đi họp phụ huynh dùm anh. Tôi nghe ớn quá, lúc đó chưa vợ con gì hết có làm phụ huynh bao giờ đâu, nhưng cũng phải rán gồng mình đi thế anh. Bà giáo sư hướng dẫn lớp thằng con lớn của anh, nhìn tôi bã hỏi: „Anh chắc không phải ba thằng Dzuy, trông anh còn trẻ quá!“. Tôi: „Dạ, tôi chỉ là em. Anh tôi bận việc không đi được“. Sau buổi họp, xuống đến sân trường tình cờ tôi thấy Sutadi (Dzuy). Hai chú cháu cười cười với nhau, dĩ nhiên nó biết tại sao tôi có mặt trong trường. Tôi dọa: „Rán học nhe con, bà giáo sư mà mắng vốn cái gì là con chết".

Thời còn đi học, những buổi nghe giãng về sớm mà buổi chiều có xuất latihan tôi luôn luôn đến nhà anh. Nhà anh ở gần nhà hội. Nhà tôi ở quá xa, gần giáp ranh thành phố. Tới nhà anh, tôi được những bữa ăn ngon của chị, đùa vui với mấy đứa con anh chị, rồi chiều đi hội tập latihan với anh chị. Khoảng thời gian này thiệt là hạnh phúc, tự nhiên một người con bà phước như tôi lại có một mái ấm gia đình để đi về.

Có một thời kỳ không biết sao tôi cần và thèm latihan quá, phải tập 3 lần mới cảm thấy đủ. Tôi lại không tập ở nhà được, dù lúc đó tôi còn độc thân. Tôi đã thử vài lần tập ở nhà. Latihan chỉ ít phút và cũng không nhận rõ ràng. Tôi đến hội tập thêm xuất thứ ba. Một hôm một phụ tá Áo lại nói với tôi. Mày chỉ được tập latihan ở hội 2 lần thôi, lần thứ 3 phải tập ở nhà. Tôi biết điều này chứ đâu phải không. Tôi năn nỉ xin cho tôi tập ở hội, có lẽ tôi cần xuất thứ 3 này một thời gian ngắn thôi. Không được, phải tập ở nhà. Tôi chán nản: „Tại sao các phụ tá tụi bây không lo coi mấy hội viên không đi tập, khuyên họ nên đi tập lại, còn tao đang cần tập, đừng làm tao chán mà bỏ tập luôn“. Tôi không được tập chung với nhóm lần tập thứ 3 mà phải sang tập phòng bên cạnh, như kiểu tập riêng tại nhà. Tụi Áo áp dụng kỷ luật hơn cả quân đội nữa. Hai người bỏ phòng tập chung qua tập với tôi phòng bên cạnh là anh Mintardjo và anh Farlan Carré (một phụ tá người Pháp, anh đã qua đời năm 2012). Vậy mà vẫn chưa yên, Hội đồng Phụ tá Áo họp lại đưa việc này ra thảo luận. Không hiểu buổi họp đó ra sao, kết quả trắc nghiệm như thế nào, sau đó họ không còn ngăn cấm tôi tập chung nữa. Tôi mang ơn anh Mintardjo và anh Farlan, cả hai anh nay đều không còn nữa.

Năm 1983 Bapak đến Anh, những anh chị em có đủ điều kiện đều chuẩn bị sang Anh gặp Bapak. Anh rủ tôi đi cùng, anh dự trù lái xe xuyên qua Đức, tới Pháp rồi đi tàu sang Anh thay vì đi phi cơ. Anh tính tiết kiệm tiền và tới Anh có phương tiện di chuyển. Tôi không đi mặc dù muốn lắm. Trước mắt tôi là những ngày bấp bênh trong cuộc sống, tôi sắp ra trường, không biết có việc làm không. Anh nói với tôi, em đi với anh chẳng phải tốn bao nhiêu đâu. Tôi buồn lắm, nhưng đành từ chối. Còn chẳng bao lâu tới ngày lên đường, anh té gãy tay. Anh thay cái bóng đèn hư cho sở, đây là tai nạn lao động, anh được bồi thường. Nhưng với cánh tay băng bột thì làm sao lái xe đi Anh được và vì sẽ lảnh tiền bồi thường tai nạn nghề nghiệp nên anh phải đi tái khám đúng hạn kỳ bác sĩ quyết định. Chuyến đi Anh bất thành.

Bất ngờ chúng tôi hay được tin vui, Bapak sau khi ở Anh sẽ ghé qua vài nước ở Âu châu. Bapak tới Đức, nước giáp ranh với Áo. Anh, anh Hoàng Cung và tôi lên đường sang Hamburg, miền Bắc nước Đức gặp Bapak. Đường cũng không gần gì, xa thăm thẳm. Xe còn trống 2 chỗ cho thêm hai hội viên nữ Áo tháp tùng. Trên xe ngoại trừ tôi là chưa biết lái xe, còn ai cũng là những người lái xe cừ khôi, nhưng anh nhất định không cho ai đụng tới tay lái. Anh không tin tài lái xe của ai hết. Lên xe tôi tựa đầu vào ghế làm một giấc. Anh Hoàng Cung kêu tôi dậy, chỉ tôi, anh lái xe mà lâu lâu phải lắc đầu vài lần cho … tỉnh ngủ. Anh Hoàng Cung và tôi hết hồn từng chập.

Chuyến đi Hamburg 1983 - người tài xế của Bapak ở Đức, Mintardjo, Hoàng Cung, Margono Tấn
 

Ba anh em tụi tôi những ngày ở Đức ngủ trong phòng tập latihan ở Hamburg. Ở chung vừa vui lại chẳng tốn kém chi nhiều, tiền trọ trả cho chị hội này bao nhiêu tùy hỉ. Hai cô Áo mỗi người ở nhà một hội viên Đức. Thấy 3 anh em ở như vậy vui quá, lại được ở ngay trung tâm thành phố, tha hồ đi ngắm phố, nên ôm đồ ra ở với mấy anh em tụi tôi. Chuyến đi này ba anh em quen anh chị Tiến Quý, gặp lại được chị bác sĩ Utami Tuyết.

Tôi nhớ trong một căn nhà nhỏ của Subud Hamburg, Bapak ngồi trên ghế, chúng tôi ngồi trên thảm quanh Bapak, sát cạnh chân Ngài. Bapak ngó lên cái gì đó trên trần nhà mà bây giờ tôi quên mất, Bapak nói: „Lần trước Bapak tới đây chưa có cái này“. Anh chị em Subud Đức reo vui: „Bapak nhớ dai quá“. Một chị ngồi gần ba anh em chúng tôi, nói nho nhỏ. „Ở bên Anh đông quá, không tới gần Bapak được. Ở đây thiệt là hạnh phúc được ngồi bên Bapak“. Tôi nhìn Bapak lòng tràn ngập hạnh phúc, cảm tạ Thiêng Liêng cho tôi có được ngày này, còn anh chắc cũng không còn buồn đã không đi được Anh.   

Thời tôi làm phụ tá nhóm Wien, phụ tá lúc đó chỉ có anh Mintardjo (anh làm phụ tá trước tôi) và Johannes (người Áo). Tập latihan 2 lần thường lệ, rồi latihan phụ tá, latihan với Hội đồng Quản trị, chưa kể latihan đặc biệt cho hội viên, latihan đi xa tập cho các hội viên sống cô lập. Sau xuất tập latihan, nhiều khi phải ở lại trắc nghiệm giúp hội viên. Tôi ngất ngư vì không có thời giờ, còn anh cái gì dính đến Subud là làm, mấy chuyện khác dẹp hết ra một bên. Anh xã thân vì Subud. Những lần đi xa, tiền xăng nhớt lúc đầu anh không chịu lấy, anh muốn chịu một mình. Chẳng có bao nhiêu, việc Subud mà. Subud Áo nghèo lắm, dù vậy họ cũng có quỹ riêng dành cho phụ tá. Ba đứa tụi tôi không đứa nào đụng tới quỹ này trong bất kỳ chuyện gì. Anh nghèo, anh chỉ là một nhân viên bình thường làm cho cơ quan Liên Hiệp Quốc, lương anh đâu có bao nhiêu, thêm một đàn con 7 đứa. Vậy mà nói mãi anh mới chịu cho chúng tôi chia tiền với anh. Tôi không bao giờ quên được những chuyến đi xa đó, chúng tôi đem đến cho các hội viên sống cô lập thật sự một niềm vui. Việc làm này là do anh đề nghị.

Gia đình anh là gia đình duy nhất trong nhóm Thái 29, có con vào Subud. Năm trong số 7 người con. Anh là trưởng nhóm Thái 29 nhiệm kỳ đầu tiên.

Những năm gần cuối đời, những lần vắng bóng anh trong phòng tập, rồi sau đó bỗng thấy được hình anh ngồi đâu đó với anh chị em bên Việt Nam, tôi cứ ngỡ là anh lại về Việt Nam. Tôi đâu biết anh bị bệnh, qua vài cuộc giải phẩu. Một lần vắng mặt anh quá lâu, gần 3 tháng. Sau lần về Việt Nam làm ăn thất bại, tôi biết anh không về Việt Nam và ở lâu như vậy nữa. Một hôm tôi vào phòng tập đang tịnh tâm mà cứ nghĩ đến anh mãi. Tôi đứng dậy ra khỏi phòng, thấy chị Liên Hồng (em chị Lan Thanh), tôi hỏi chị. Anh Mintardjo đâu sao lâu quá em không thấy. Chị cho biết anh bị bệnh. Sau đó, tôi gọi lại chị Hartini hỏi thăm. Anh mới qua một cuộc giải phẩu, còn yếu chưa đi tập latihan được. Anh Raimund, một phụ tá Áo, tuần nào cũng tập latihan với anh qua điện thoại. Ngay cả khi anh Raimund đi công cán ở ngoại quốc. Sau đó anh Mintardjo đi tập lại thường xuyên, latihan của anh mạnh mẽ như xưa.

Giữa tháng hai, tôi với anh Liêm Khiết email qua lại, bàn luận về cái "lạnh" cho anh Hoàng Nam, người Cali ở vùng nắng ấm quanh năm nghe. Tới giờ đi tập latihan. Tôi viết. "Bây giờ em phải đi tập latihan. 50 phút nữa thì bắt đầu xuất latihan tại Áo, anh Hoàng Nam có tập latihan thì tập chơi cho vui. Bên này còn lạnh quá … ". Anh Hoàng Nam viết lại liền: "OK, bây giờ còn kịp, anh tập Latihan ngay, sẽ nói chuyện sau". Sau xuất latihan về, tôi "báo cáo" Subud Việt có những ai tập hôm đó cho anh biết. Anh Mintardjo vắng mặt. Tuần sau nữa cũng chỉ có mình tôi và anh Hoàng Nam, người ở phương trời xa.

Xuất latihan hôm thứ Sáu, trước ba ngày anh Mintardjo qua đời. Khi vào phòng tập, thói quen tôi thường làm là nhìn vào chiếc ghế anh vẫn thường ngồi. Vắng bóng anh, chẳng hiểu sao lòng tôi chợt buồn man mác, dù thường khi anh đến hội sau tôi và chiếc ghế thường vẫn trống khi tôi vào phòng tập. Đang tập latihan, bỗng tôi nghe tiếng anh đi ngang. Anh kêu Thượng Đế như thường lệ. Tôi mở mắt ra nhìn. Latihan anh mạnh mẽ như mọi lần. Xong latihan, tôi ra về, tới cửa phòng tập, đúng lúc anh đi qua đó, anh vẫn còn tiếp tục tập xuất latihan... cuối cùng trên dương thế. Tôi nhìn anh. Tôi đâu biết, tôi sẽ chia tay anh vĩnh viễn.

Lá thư tôi viết cho anh Hoàng Nam, sau xuất latihan hôm đó và đang luận về chữ "thức" với anh ấy và anh Liêm Khiết (từ một câu nói mà anh Hoàng Cung nói với tôi khi xưa: "Đời người ngắn quá, ngủ nhiều mất hết thời gian để sống"): "Hôm qua (bên Áo) anh Hoàng Nam có tập latihan không? Việt Nam bên nam đủ mặt: anh Vũ, Trọng và em. Áo cũng khá đông, 15, 16 người. Thấy được anh Vũ mừng quá. Anh ấy vắng 2 tuần rồi, sợ anh ấy lại bị bệnh gì nặng nữa. Thời gian còn lại của mấy anh em chẳng còn bao nhiêu nữa để… thức. Rồi thì người nào cũng sẽ ngủ một giấc dài: ngủ giấc ngàn thu". Anh Hoàng Nam viết lại: "Có, sáng thứ sáu hôm nay (bên Cali) anh có tập Latihan xuất 10 giờ, cùng thời gian với bên em. Cho anh gửi lời hỏi thăm chúc sức khỏe đến Anh Mintardjo Vũ và gia đình".

Ba ngày sau anh Mintardjo mất.

Anh Hoàng Nam, tôi và Simon Trọng đã tiễn anh Mintardjo lên đường với xuất tập latihan chung với anh, cùng với nhiều huynh đệ Áo, trong đó có anh phụ tá Raimund (một tiến sĩ làm trong cơ quan năng lượng), người đã tập không biết bao nhiêu xuất latihan đặc biệt giúp anh Mintardjo. Người, anh Mintardjo vô cùng kính nể và thương mến.

Margono & Raimund

Anh mất trưa thứ Hai, tối thứ Ba có xuất latihan đặc biệt, cầu nguyện cho linh hồn anh, được rất đông huynh đệ đến tập. Sau xuất latihan bình thường, con rể anh xin mọi người cho anh ấy đọc một đoạn kinh cầu nguyện. Trước khi đọc kinh, anh hướng về chúng tôi, xin huynh đệ hãy tha thứ cho anh Mintardjo mọi lỗi lầm khi còn sinh thời anh Mintardjo đã vấp phải. Nhân vô thập toàn. Đoạn kinh tiếng Ả Rập thật hay. Rồi chúng tôi tập latihan cho anh.

Nghe nguồn tin không chính thức, chị Hartini chỉ muốn tổ chức lễ an táng trong vòng gia đình và cho người Subud thôi. Tôi gọi điện thoại hỏi xin chị cho vợ tôi (chưa là hội viên Subud) được tham dự. Hai đứa tôi lần đầu tiên đi dự một đám tang của người Hồi giáo. Một đám táng quá đơn giản, không có cả kinh cầu nguyện.

Điểm đặc biệt là anh chị em nhóm Thái 29 còn định cư ở Áo đều có mặt. Anh Hoàng Cung, Mintarti Gái, Minh Thần và tôi. Chúng tôi đi với anh một đoạn đường chót.

Buổi tối thứ Sáu hôm đó, sau xuất latihan thường lệ tại nhà hội Subud Wien, gia đình anh làm Selamatan tạ ơn những người đi tiễn anh. Con rể anh đọc 4 đoạn kinh cầu nguyện trước khi vào tiệc.

Cầu xin Thiêng Liêng Toàn Năng thương xót đón rước linh hồn anh. Cảm tạ Thiêng Liêng Toàn Năng đã cho tôi được sống với anh một đoạn đường dài trong đời.