Header image
 
 

Những chứng nghiệm với Bapak của Husain Chung

Minh Thần dịch 2015
   
Trích trong God the Therapist của Husain Chung, một người Mỹ gốc Hoa thế hệ thanh niên đầu tiên tiếp nhận latihan ở Mỹ

 
     
 
 
Mục lục
  01 - Lần đầu gặp Bapak
  02 - Buổi latihan đầu tiên của Bapak tại Mỹ
  03 - Ông Bennett làm trắc nghiệm với Bapak
  04 - Đi thăm hội viên cùng Bapak
  05 - chứng nghiệm với Bapak
  06 - Một buổi nói chuyện tại Bàn Bi-A
 

 

 

Lần đầu gặp Bapak

Năm 1958 không ai thực sự biết gì về nhân vật đầu tiên nhận được latihan ở Nam Dương. Không có sách báo hay bất cứ gì viết về ông. Trước đây, tôi nhiệt thành ước ao được sống trong thời đại của những nhân vật thần kì, của các thiên sứ, khi họ còn đi đứng trên trần gian. Tôi tự hỏi điều gì đã thực sự xảy ra trong đời sống hằng ngày cho các môn đồ của họ khi một tôn giáo mới thành hình? Tôi cố đi tìm đáp án, nhưng chẳng được gì, trong những đống sách mờ ám của đại học khi còn là sinh viên.

Ước vọng của tôi đã thành sự thật.

 
tác giả  

Tác động lạ thường của latihan đối với cuộc sống tôi phần nào đó tương tự với cuộc sống các môn đồ ban đầu và những kẻ trung thành với tôn sư của họ. Toàn bộ cuộc đời tôi bị đảo lộn, hoàn toàn biến đổi. Tôi bắt đầu trải qua những biến đổi của nội và ngoại giới. Tôi không còn là một kẻ như trước kia. Đó là những gì đã xảy ra cho các môn đồ ban đầu, những kẻ lập tức vứt bỏ lưới đánh cá, thôi không làm công việc hằng ngày của họ, và có lẽ đã bỏ cả vợ con để đi theo các vị thiên sứ của họ?

Điều gì sẽ xảy ra trong thực tại của nước Mỹ công nghệ hiện nay, nếu một nhận vật bình thường của hiện nay đến theo sự ủy nhiệm của một uy quyền cao siêu để đem đến một thông điệp đặc biệt cho toàn thể nhân loại? Bạn đã từng hỏi chính mình sẽ đối xử ra sao nếu mình đứng trước mặt một vị thiên sứ?

Ông John Bennett và các bạn đồng liêu thuộc phái Gurdjieff của ông là những người tài trợ cho và mời nhân vật đó cùng với đám tuỳ tùng từ Nam Dương tới Coombe Springs, Anh quốc. Các hội viên Subud gọi ông là Bapak (nguyên văn là người cha), một từ ngữ thường dùng để tỏ sự kính trọng đối với những người lớn tuổi ở Nam Dương. Bapak khai mở cho mấy trăm đệ tử của ông Bennett để họ tập latihan, những kẻ lúc đó tới dự những buổi họp của phái Gurdjieff. 

Sau khi sống bên cạnh họ tại Coombe Springs trong 6 tháng, Bapak phái ông Bennett tới San Francisco để chuẩn bị cho chuyến đi tới nước Mỹ của mình. Tôi là một kẻ thuộc nhóm San Francisco lúc ban đầu mà ông Bennett và bà vợ Elizabeth dẫn nhập tiếp xúc với latihan. Dưới sự hướng dẫn của ông Bennett, chúng tôi tập latihan được khoảng 3 tháng, trước khi Bapak đến San Francisco. Tôi có thể nói với bạn điều này: việc Bapak đến là điều rất khó có thể tường thuật lại một cách hiểu được theo lôgích. Tôi có thể nói rằng khi chuyện đó xảy ra trong những lúc khó tin được của cuộc đời mình, đó là một hiện tượng, chắc chắn vậy, tuyệt vời và lạ thường nhất, một điều vượt ra ngoài những gì tôi có thể nghĩ tới.

Nghe tin Bapak lần đầu tới nước Mỹ, tôi tức khắc tới San Francisco International AirPort, suốt đường đi chạy xe hơn 80 cây số giờ. Trông thấy một hàng xe tại nơi ra vào International Terminal, tôi đậu xe đằng sau một chiếc xe hòm màu đen và xông vào nơi đó. Có một nhân vật được phái tới với một thông điệp đặc biệt cho toàn thể nhân loại, và ông đáp xuống ngay nơi đây tại San Francisco nơi nước Mỹ của thế kỉ 20, tháng 6 năm 58!

Tôi có mặt ngay tại nơi, khi Bapak bước xuống máy bay đi trên đường nhựa! Thậm chí tôi ngạc nhiên thấy chính mình xông xáo và xô đẩy với cái thân hình nhỏ bé của mình xuyên qua đám đông đến chào đón tại cổng hành khách bước ra. Tôi bịa những cớ lếu láo với các viên chức của phi trường mình là một kẻ đại diện chính thức đến hộ tống cho nhân vật VIP đặc biệt đó. Trước khi họ có thể tra hỏi, tôi đã vượt qua cổng an ninh.

Tôi lập tức nhận ra người.

Sự hiện diện của ông có một vẻ đặc biệt không thể lầm lẫn; ông có dáng vẻ của một người đích thực là phái viên của một uy quyền cao siêu nhất thuộc một cảnh giới khác. Ông là một người đem đến một gói đồ có gì đó đặc biệt cho nhân loại. Khi ông có mặt, tôi cảm thấy toàn thân mình phản ứng, tôi tự động cúi chào. Ông tạm đứng lại nơi lối ra, đứng đó trong bộ com lê ngăm ngăm đen, với một chiếc nón màu đen, mắt nhìn chung cái lục địa mới lạ này với những dân cư của nó. Tôi có thể cảm thấy phúc lành nồng hậu và đầy tình thương của ông. Chân tôi cong lại, bàn chân bị đông lạnh trên mặt đất. Tôi cố nín không cho mình khóc vì sung sướng. 

Sự hiện diện của ông làm tôi cảm thấy sự phản ứng của toàn thân mình: tôi tự động cúi chào. Một tình thương mãnh liệt mà tôi chưa từng nhận thấy trước kia nổ tung vào lòng tôi. Điều này như là tôi đã quen biết ông, nhận ra ông từ một không gian hay thời gian khác. Mọi thứ chợt mờ tối, vì một thực tại chói lòa, sáng ngời, vượt ngoài mọi bóng tối. Tôi nghĩ là mình phải bất tỉnh vì sự say sưa trong cái trí óc đầy thuốc mê của mình.

Tim tôi ngưng đập trong giây lát trong lúc tôi nắm bắt cái hiện ảnh kì diệu đó. Tôi bị đóng băng tại chỗ, và không gì có thể khiến tôi cử động, trừ phi đó là mệnh lệnh từ một nơi cao chót. Mắt gắn bó nhìn Bapak, tôi không trông thấy bất cứ gì khác. Khi cúi chào tôi có thể rõ rệt trông thấy đôi giầy Oxford màu đen nhỏ xíu của ông. Nhưng tôi không cúi chào vì cá nhân ông, mà vì cái hào quang thánh thiện tôi cảm thấy phát ra từ sự hiện diện của ông.

Tôi chợt hiểu được. Chính cái uy quyền đáng kính sợ đó và cái trạng thái mê ly của tình thương nó gây ra nơi mọi người mà các môn đồ xưa kia và những kẻ đi theo các vị thiên sứ đã nghiệm thấy trong những sự linh thị thần kì đó, là những gì đã khiến họ sửng sốt và ám ảnh họ. Tất cả những người đó chợt thức tỉnh và được ban phước cho bởi một sự va chạm sấm sét long trời lở đất giống với Moses khi ông vĩ đại đi xuống ngọn núi Sinai, tay cầm Mười Điều Răn cho nhân loại của Thiên Chúa. Hay có lẽ họ đã cảm thấy điều đó, khi lần đầu trông thấy Đức Ki Tô đi đứng trên mặt biển sóng gió, cánh tay giơ lên làm cho cơn bão trở nên im lặng. Hay có lẽ họ đã cảm thấy điều gì tương tự, khi bị lòa mắt bởi luồng ánh sáng màu của vàng chói chang chung quanh Muhammad trong lúc ông đang cưỡi con lạc đà to lớn tiến tới phía họ.

Tuy thế, khi ta nhìn theo viễn cảnh của cái thực tại thông thường, Bapak trông bề ngoài có vẻ cực kì bình thường đến nỗi có thể là bất cứ ai trong một đám đông. Mỗi người đều có một cá tính đặc biệt nào đó khiến họ trở nên độc đáo, nhưng Bapak đặc biệt nổi bật vì ông thiếu hẳn cái Tôi; không có điều “Tôi là thế này thế nọ” hay sự “Coi-Tôi-Đây-Này”. Ông gật đầu và mỉm cười, nhưng không bị ảnh hưởng của sự tinh hoa cái danh tiếng mà chúng tôi gán cho ông. Bapak không kiểu cách đi đứng, hai tay chắp lại như Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay vẫy tay ban phước như Đức Giáo Hoàng. Bapak đi đứng và ăn mặc như mọi người, nhưng đối với tôi điều đó như là ông đang nổi trên mất đất độ hơn hai phân, và đi đứng như trong một cảnh quay chậm lại.

Bây giờ tôi thấy rõ được tại sao xưa kia những kẻ gần cận nhất với các vị thiên sứ đã không truyền lại những gì họ ghi chép lại, như một nhật kí hay một sổ đương việc. Nhưng như thế nào việc sống bên cạnh các vị thiên sứ đã tác động tới đời sống cá nhân và gia đình họ, và họ đã trải qua những gì khiến đời mình biến đổi? Đối với tôi thì khó có thể dùng thời gian quý báu chỉ để ghi chép lại những gì Bapak nói tới, đó là tôi chưa nói tới việc mình cảm thấy ra sao.

Tôi thấy dễ hơn là viết về cái chứng nghiệm của mình sau một khoảng thời gian - tới nay thì đã hơn 50 năm. Tuy nhiên, hồi đó, mỗi giây phút sống động và mãnh liệt kì diệu trong sự trực tiếp của nó đến nỗi điều này như việc đi qua những thác gềnh hiểm bí trong khi viết lại những gì đã xảy ra. Chiếc bè gỗ sẽ tan tành đụng vào những tảng đá mòn phía trước.

Tôi nói với bố mẹ và bà chị mình về những chứng nghiệm của mình. Họ muốn bằng chứng đích thực. Tôi mời họ tự tìm thấy. Sau vài tuần, cả mẹ và chị tôi đều quả thực đã tiếp nhận được latihan và tin tưởng những chứng nghiệm của họ. Nằm trên giường trong lúc sắp chết, bố tôi yêu cầu được tiếp nhận, và tôi đã truyền cho ông. Ông cụ chết yên bình, và bàn tay chúng tôi lần đầu siết chặt nhau.

Tôi chưa từng là một đệ tử hay tín đồ của bất cứ môn phái, tôn sư hay phong trào nào, tâm linh hay thứ gì khác. Hồi đó tôi là một độc cô tâm linh sinh sống tại Big Sur. Nếu bạn nói với tôi một ngày nào đó tôi sẽ không chống cự mà đi thẳng tới cái ánh sáng chói lòa đó như một con bướm đêm đi tìm cái chết, tôi sẽ không tin bạn.

Nhiều năm sau đó, tôi không thể thuật lại những chứng nghiệm của mình. Ngay cả chuyện viết về những cái đó là điều vượt ngoài khả năng mình. Tôi cảm thấy một sự không tin âm thầm kéo dài, khiến loạn óc, ở con người đó, nhưng đồng thời cũng thấy chính mình lúng túng công khai chấp nhận là mình đã đi theo ông trên khắp thế giới - không chỉ một mà là nhiều lần.

Tôi đã chỉ trích những môn đồ tôn thờ cá nhân ông, nhưng chính mình cũng đã bỏ nhiều việc làm, bị mắc nợ, bỏ cả vợ con, để chỉ được gần cận con người đó. Hiện nay tôi có thể thông cảm sự tận tâm của Phê Rô đối với Chúa GiêXu, việc ông ba lần chối cãi mình là một môn đồ của GiêXu khi Chúa bị đóng đinh.

Tôi luôn tự hứa với mình là sẽ không bao giờ làm như vậy nữa, nhưng lần kế tiếp khi ông bước vào cái lục địa này, tôi cũng lại đến ngay bên cạnh ông. Có lần, tôi đứng gần ông đến nỗi phải lúng túng xin lỗi, khi ông bước vào chiếc xe cao cấp cỡ lớn. Tôi luôn tự nhắc cho mình nhớ lại mình là một kẻ suy nghĩ có đầu óc phê phán, được thông tin đầy đủ về tất cả những quan niệm và quá trình mới nhất của khoa học. Làm sao tôi lại có thể bị tụt hậu xuống lối suy nghĩ của đám đông về một thiên sứ nào đó với một tôn giáo mới? Một thói nệ nghi thức khác trên tất cả những gì đã có? 

 

 
     
 
  © 2015 góc nhỏ