Header image
 

Chứng nghiệm

Thành Trung

 
tác giả  

Tôi xin kể lại một số chứng nghiệm mà tôi đã cảm nhận được để chia sẻ với anh chị em để chứng thực rằng nguồn ân điển của Thiêng Liêng là hiện hữu.

Vào cuối năm 1966, lúc đó tôi mới 17 tuổi, đang bị viêm gan siêu vi A nặng, sức khỏe suy kiệt, ăn vào thì ói ra, cả tháng không đi tiêu được.

Lúc đó tôi tìm tới Subud. Đứng trước trụ sở Subud, lần đầu tiên tôi không dám vào. Tôi định đi về thì thấy trên nóc trụ sở một quả cầu màu bạc. Quả cầu này lớn khoảng nửa quả banh bóng đá, đang xoay xoay trên nóc phòng tập nam của trụ sở. Tôi nhìn một lúc lâu, vẫn chưa dám vào. Lúc ấy khoảng năm giờ chiều, tôi đi về. Khoảng năm giờ chiều hôm sau, tôi lại đến. Nhưng lần này tôi lại thấy trên nóc nhà, cũng ở trên nóc phòng tập của nam, một quả cầu màu vàng rực rỡ. Tôi đứng nhìn, quả cầu vẫn xoay xoay. Một lúc lâu sau, tôi thấy một người mà sau này tôi mới biết là anh Muliono Phương đi vào trụ sở. Tôi liền băng qua đường, đi theo vào trụ sở. Thời gian sau, tôi vào Subud.  Đầu năm 1967, tôi được phụ tá là ông Giác Nguyên khai mở. Thời gian đầu tiên vào Subud, tôi rất thèm ăn muối, lúc nào cũng ngậm muối. Từ đó tôi ăn gạo lứt muối mè cho tới khi hết bệnh.

Sau này tôi có một số chứng nghiệm:

Sau sáu tháng vào Subud, latihan của tôi lúc nào cũng cử động mạnh.

Một hôm, vào khoảng mười hai giờ đêm, đột nhiên tôi cảm nhận latihan. Đang nằm mà tôi cảm thấy lưng và thân thể bay bổng, thân tâm thật nhẹ nhàng. Lúc đó tôi đang ở Saigon, nhưng tôi thấy hiện ảnh tôi đang đứng cạnh tủ lạnh trong nhà má tôi ở Cái Bè.

Bỗng tôi nghe một tiếng nổ lớn ở trước nhà. Tôi thấy sáng rực, kiếng bể vì bị pháo kích trúng ngay trước nhà, không có ai bị thương. Cả nhà chui xuống hầm, tôi thấy rõ từng người, ai chui vào trước, ai chui vào sau. Rồi tôi cảm thấy thân thể nặng nề. Tôi cảm thấy mình đang nằm trên giường, nóc mùng sáng rực. Tôi nằm như thế trong cảm giác latihan nhẹ nhàng.

Bốn giờ sáng, tôi ra bến xe về Cái Bè. Về tới nơi, tôi thấy cả nhà đang dọn dẹp mảnh kiếng bể, tủ bàn bị hư. Tôi hỏi về việc chui vào hầm trú ẩn thì người chui vào trước, người chui vào sau, đúng y như tôi đã trông thấy hồi tối. Sau này, tôi có hỏi thì bác phụ tá Giác Nguyên nói rằng đó là vì Thiêng Liêng đã cho tôi xuất hồn.

Khoảng một năm, sau khi vào Subud, trong một đêm nằm chiêm bao tôi thấy một người chết đã lâu mà vẫn bám vào đời sống thế gian. Tôi mới tới nói vậy là không đúng thì vong linh đó cười. Tôi tức giận định đánh thì vong linh đó cười và hiện ra một gương mặt quái gở, hai chân mày nhíu lại, miệng cười toe toét. Bỗng nhiên tôi nghe tiếng nói: “Hãy tịnh tâm!” Tôi liền tịnh tâm thì vong linh đó biến mất. Tôi giựt mình tỉnh dậy thì lúc đó khoảng một giờ khuya.

Đêm hôm sau, tôi đang ngồi với người bạn, má tôi kêu tôi lên lầu để bắt ti vi cho má tôi xem, vì lúc đó nhà mới mua ti vi nên má tôi chưa quen sử dụng.

Lên tới lầu, đứa em đang đọc kinh, thì tự nhiên má tôi không dám bước vào phòng. Tôi đẩy má tôi vào phòng, má tôi cưỡng lại. Tôi nhìn má tôi thì khuôn mặt biến đổi, người thì quị xuống. Tôi đỡ má tôi ngồi, nhìn kỹ lại khuôn mặt thì thấy giống y như khuôn mặt mà tôi nằm chiêm bao trông thấy tối hôm trước. Tôi nóng giận tự nghĩ tại sao mình tu tập như vầy mà má mình bị quỉ ám. Tôi giơ tay lên định đánh thì khuôn mặt má tôi thật quái dị. Hai chân mày nhíu lại, miệng lại cười.

Bỗng nhiên tôi nghe tiếng nói: “Hãy tịnh tâm!” Nhắm mắt lại, tôi cảm thấy một luồng áp lực làm tôi thở không được. Từ từ latihan xuất hiện. Tôi thấy hơi thở nhẹ nhàng. Một cái gì đó thật lạ lùng đang lan tỏa từ người tôi ra như một khối cầu lớn từ từ bao trùm tôi và cả má tôi. Tôi mở mắt nhìn thấy khuôn mặt má tôi trở lại bình thường, không còn hôn mê nữa. Má tôi kể đó là vong linh của một thanh niên ngày xưa đi hỏi má tôi làm vợ, nhưng bị bịnh chết.

Sau này, má tôi lấy chồng lần đầu tiên có hai người con thì người chồng chết. Về sau, má tôi gặp ba tôi. Ba tôi đã chạy chữa không biết bao nhiêu là thầy bùa Lỗ Ban mà vẫn không khỏi bị vong linh đó nhập. Nó nhập hoài ba tôi phải bỏ má tôi, má tôi mới trở lại bình thường, vong linh đó không phá nữa. Lúc đó, má tôi năm mươi tuổi.

Và bà phụ tá Mardi Ning Shi đã xuống Cái Bè để khai mở cho má tôi. Từ đó, má tôi sống bình yên.

Một chứng nghiệm lạ lùng nữa. Năm 1975, quân cách mạng đã chiếm miền Nam, tôi đi học cải tạo xong, trở về Cái Bè. Khoảng thời gian này, ngoài việc làm latihan, tôi thường nhịn ăn liên tục.

Có lần tôi đang làm latihan, lúc đó khoảng 12g trưa, đầu óc tôi bỗng nghĩ tới người anh thứ tư ở Bình Phước Vĩnh Long, cách Cái Bè 35 km. Anh tên Hồng, bị viêm tai giữa nặng, mủ đã lên tới sọ nên thường bị ói và chóng mặt.  Cũng vào thời gian 12 giờ trưa đó, anh Hồng kể lại bỗng nhiên đầu óc anh không suy nghĩ gì, anh đi lang thang ra đường, đón xe lam ra Vĩnh Long, xuống đò về Cái Bè. Khoảng 2 giờ, anh Hồng về tới Cái Bè, và lên lầu, ngay chỗ tôi tập latihan. Tự nhiên tôi chỉ nói anh ngồi xuống. Lúc bấy giờ, latihan bộc phát trở lại, tôi đi xung quanh anh Hồng ba lần, mỗi lần tôi hà hơi vào lỗ tai hư của anh ấy. Làm xong đúng ba lần, tôi bảo anh hãy tới nhà anh rể thứ năm chơi, còn tôi thì tiếp tục làm latihan.

Hôm sau, anh Hồng về lại Bình Phước. Lỗ tai anh hết ra mủ, không còn đau vùng sọ trên lỗ tai và đặc biệt lỗ tai điếc mấy chục năm nay đã nghe lại. Mãi đến ba năm sau anh này mới điếc lại vì anh hay nhậu nhẹt. Trước khi anh về, tôi có dặn anh đừng nhậu nữa mà anh không nghe. Thật kỳ lạ, điếc mấy chục năm, trong latihan chỉ hà hơi ba lần mà hết điếc.

Ở Cái Bè có một người lên núi Thất Sơn tu từ nhỏ, chuyên về bùa chú, rất giỏi, trị được nhiều bịnh. Chú này đi hành đạo khắp mấy tỉnh miền Tây. Năm 1976, chú bị chính quyền cách mạng bắt tại Cái Bè. Chú không sợ mà còn mắng chửi và thách thức. Bị công an thị trấn đánh, chú có bùa gồng nên không ăn thua gì, dao đâm cũng không lủng. Chú bị công an dùng dao lê trét phân gà đâm vào mình lủng nhưng không sâu [tại vì chú này thách thức người ta]. Bị nhốt nhưng chú xin ra nhà người quen tắm. Chú đến nhà tôi, lên lầu xin cứu chữa. Lúc đó khoảng 12g 30 trưa, tôi đang tập latihan thì chú ấy vào, chú ấy nói tiếng gì tôi không hiểu. Bỗng dưng tôi thấy một khối lớn hình tròn màu vàng sáng rực từ trên không ập vào mình tôi. Tôi cảm thấy người tôi to ra, bàn tay lớn thật lớn. Tôi đưa ba ngón tay ra, cầm chai nước ngậm vào miệng, phun vào người chú đó. Lúc ấy chú ta cởi áo ra, nước phun tới đâu, vết thương lành tới đó. Chú ấy quì lạy và nói đó là điển của Thượng Đế. Rồi chú ấy xuống tắm và trở về đồn công an. Đúng ba ngày sau chú ấy được thả, ứng với ba ngón tay tôi đưa ra lúc có latihan. Thật là huyền diệu. Sau này chú nghe lời khuyên của tôi, không luyện bùa chú nữa và ra Bà Rịa Vũng Tàu, tu theo đạo Phật.

Ở Bà Tồn, một xã thuộc huyện Cai Lậy, cách Cái Bè 10 km, có cô gái tên là Mai, bị bịnh mà sau này tôi mới biết là bịnh rong kinh. Bà ngoại của cháu có đem cháu tới Cái Bè nhờ tôi trị bịnh. Lúc đó khoảng 8giờ tối, ở nhà anh Hiển, cũng là hội viên Subud, ông nội của  cháu Mai là thầy bùa lỗ ban, lúc đó đã 80 tuổi, rất tài giỏi, bà ngoại của cháu Mai là một hội viên Subud. Nay bà này và anh Hiển đã mất. Nhìn cháu Mai, tôi thấy cháu xanh mét,   môi thâm đen và thâm cả môi trên trông giống như đàn ông. Ông nội của cháu Mai đã trị bịnh bằng bùa mà không hết, nói là bịnh “mắc đàng dưới”. Tôi nhìn hồi lâu và nhắm mắt lại tịnh tâm. Một lát sau, latihan trổi dậy nhẹ nhàng, tôi mở mắt ra, nhìn cháu đang ngồi đối diện, tôi nói: “Cháu không có bịnh gì cả.” Cháu Mai mừng rỡ, hỏi: “Thật hả cậu?”

Tôi gật đầu nhìn cháu và thấy mặt cháu từ từ có khí sắc hồng hào, môi đỏ trở lại. Và từ lúc đó, cháu Mai đã khỏi bịnh.

Sau này, cháu Mai kể lại là kinh nguyệt ngưng ra ngay từ lúc đó. Cháu bị rong kinh đã lâu trị tây y và bùa chú hoài không hết, dù ba cháu là y sĩ. Khoảng ba hôm sau, ba của cháu Mai mời tôi xuống nhà ở Bà Tồn chơi. Tôi đi cùng bà ngoại của cháu Mai. Nhà ở vườn lớn lắm, gồm ba gian, hai chái. Tôi tới khoảng 9 giờ rưỡi. Khi vào nhà thấy bàn thờ rất nhiều. Tôi giữ phép lịch sự lại đốt nhang. Đột nhiên ông nội và bà nội của Mai, mỗi người đứng trên một cái giường gỗ, giường ở hai bên, chính giữa rộng khoảng ba thước, là đường đi từ cửa vào nhà tới bàn thờ. Mỗi người cầm ba cây nhang, miệng đọc thần chú, phun nước vào người tôi. Tôi chưa hiểu chuyện gì, đột nhiên latihan xuất hiện, một vầng hào quang tròn lớn từ trên không bao trùm lấy tôi. Tôi cảm thấy thân thể tôi to lớn dị thường, hai bàn tay thật to, tôi tưởng tượng như một cái bàn tròn dùng để ngồi ăn cơm. Tôi hét một tiếng lớn, hai tay dang rộng ra, lòng bàn tay xòe ra, đánh vào khoảng không, về phía hai người. Họ đứng trên bộ ngựa gõ cao, tôi đứng cách họ khoảng 1m 50 mỗi bên. Tôi chỉ đánh vào khoảng không, chẳng trúng vào người họ. Tôi thấy họ té ngồi xuống. Tôi bỏ ra về lập tức, latihan cũng vừa chấm dứt. Mọi việc xảy ra không tới ba phút.

Tối đến, ba của cháu Mai là anh Bảy và con của hai ông bà thầy bùa chạy xuống Cái Bè, kêu tôi gỡ ấn vì má anh bây giờ nằm một chỗ, dậy không được, còn ba anh thì đỡ hơn một chút. Tôi hết hồn hỏi lại: “ Gỡ ấn gì?”

Anh Bảy nói:“ Gỡ ấn Ngũ Hành Sơn.”  Tôi hết hồn bảo là tôi đâu có biết gì đâu. Mà thiệt tình tôi đâu có biết gì. Anh Bảy nói má ảnh bị tôi đánh cho một chưởng ngũ hành sơn, bây giờ trên ngực in nguyên bàn tay sưng bự lên xanh lè. Tôi nói: “Thôi để mai em xuống.”

Má tôi cũng lo sợ vì bây giờ Cách Mạng đang cầm quyền, chống mê tín dị đoan và tôn giáo dữ lắm.

Sáng hôm sau, tôi cũng không dám xuống vì tôi đâu có đánh trúng, chỉ quạt tay ngoài khoảng không. Má tôi năn nỉ xuống coi xem sao rồi lo tiền thuốc thang cho người ta. Tôi cũng sợ lắm, tôi rủ anh Hiển cùng đi [anh Hiển là huấn luyện viên Thái Cực Đạo], gặp chuyện gì có anh cũng đỡ.

Xuống tới nơi. Trong nhà và ngoài sân trên năm mươi người ngồi chờ tôi xuống, do hiếu kỳ. Vả lại, ông bà thầy bùa này từ trước tới nay giỏi lắm.

Tôi vào nhà, thấy má anh Bảy nằm mặt mày xanh lè, cả ngày hôm nay chỉ uống nước cháo chứ ăn cơm không nổi, thật là thê thảm. Người ta đỡ bà cụ dậy, cởi áo ra, tôi nhìn thấy nguyên bàn tay năm ngón hiện ra rõ ràng và sưng lên màu xanh bầm. Ai cũng chờ tôi gỡ ấn mà người ta gọi là ấn ngũ hành sơn. Đầu óc tôi rối bời, không biết phải làm gì.

Có người đốt ba cây nhang đem lại cho tôi để trị bịnh cho bà cụ. Tôi cầm ba cây nhang, không biết phải làm gì, bèn cắm vào lư hương. Bỗng nhiên latihan ở trong người tôi trỗi dậy, tôi mừng thầm. Latihan chuyển động con người tôi tới bên người bịnh, tôi thấy rõ bàn tay trên ngực. Đột nhiên tôi nắm bàn tay lại, đấm mạnh vào chỗ sưng trên ngực. Lạ lùng thay! Huyền diệu thay! Chỗ sưng trên ngực biến mất. Điều lạ nữa là bà cụ ngồi dậy bình thường. Chuyện xảy ra không đầy ba phút. Lúc bấy giờ, latihan  chấm dứt. Tôi quay lại, thấy người ta lạy tôi như tế sao. Hai ông bà thầy bùa lỗ ban cũng chấp tay xá, tôi cũng khoanh tay cúi đầu chào lại. Sau đó, tôi nắm tay anh Hiển mau mau ra xe máy đi về liền vì ở lâu sợ chính quyền mời. Thật hú hồn!

Những chứng nghiệm này tôi kể lại hoàn toàn không có chút phô trương nào. Đó là thực chứng về tâm linh trong những năm đầu tu tập. Tôi nhận ra rằng ân điển của Thiêng Liêng thật vô cùng, Ngài không bao giờ từ bỏ chúng ta mà chỉ có chúng ta rời bỏ Ngài mà thôi. Nếu đừng vì tham dục lôi cuốn thì chúng ta luôn ở bên cạnh Ngài. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đi đúng hướng, trả đúng nghiệp, kể cả thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp của nhiều đời nhiều kiếp.

Và tôi chắc chắn rằng một người thật tâm tu dưỡng, dù ở hoàn cảnh nào, nguy hiểm tới đâu, tâm linh người đó sẽ được Thiêng Liêng bảo vệ và cuối cùng sau khi rời bỏ thân xác sẽ trở về kề cạnh bên Ngài.

Dĩ nhiên tôi chỉ là một người bình thường, chưa đắc đạo, nhưng tôi biết rằng Subud là ân huệ cứu độ chúng sanh trong thời kỳ mà nhân loại đang điêu đứng và lầm than trước thiên tai, chiến tranh và bịnh tật. Ở một người bình thường như tôi, công phu tu tập đâu có là bao nhiêu mà có được những ân huệ ngoài sức tưởng tượng. Ân điển của Thiêng Liêng là vô cùng. Qua một số chứng nghiệm, tôi thấy Thiêng Liêng quả là Toàn Năng, không thể nghĩ bàn.

Sở dĩ chúng ta tập latihan mà còn bịnh tật là do nghiệp quả của chúng ta, vì không hoàn toàn qui thận và tâm trí chúng ta bị loạn động, vì ngoại cảnh chi phối nên không nhận được chỉ dẫn từ bên trong do latihan phát khởi, bắt nguồn từ Đấng Thiêng Liêng Toàn Năng Toàn Giác.

Tôi còn nhớ trong kinh Phúc Âm có câu:

“ Hạnh phúc thay cho những ai có tâm thanh tịnh vì họ sẽ được trông thấy Chúa.”

Và trong kinh Phật cũng có câu: “Chúng sinh tâm thủy tịnh, Bồ đề ảnh hiện trung”

Chúc tất cả anh chị em luôn được thanh tịnh. 

 

 

 
   
  © 2013 góc nhỏ